Nguyen Van Trieu * and Pham Anh Van

* Corresponding author (nvtrieu@ctu.edu.vn)

Abstract

The study was to determine some feeding behaviour characteristics of Soldier river barb, Cylocheilichthys enoplos from fry to fingerling. The study was conducted in earthen pond having size of 10×20 (m) and 1 m of water depth. Two days old larvae was nursed at density of 200 fish/m2 for a period of 30 days. Phytoplankton, zooplankton and fish samples were collected at day 2,3,4,5,6,7,9,11,16,21,26 and 31 day-old post-hatching for analyzing of planktonic composition and quantity; and feeding behaviour of C. enoplos fry. The results represented that C. enoplos fry start first feeding at 2 day-olds post-hatching and fed mainly on Nauplius. The relative length of the gut (RLG) fluctuate from 0.742 – 0.827. Mouth size of fish was in range of 0.23 – 1.19 mm. Rotifera (Brachionus) and Nauplius were selected on the 5th and 6th by larvae. From 9th onwards Cladocera (Moina) and Copepoda (Mesocyclops) were chosen.  There was no selected phytoplankton for feeding. The experiment showed that C. enoplos was the zooplanktonic feeder from fry to fingerling stage (30-days old).
Keywords: Cyclocheilichthys enoplos, food selection, relative length of gut, mouth size

Tóm tắt

Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định một số đặc điểm dinh dưỡng của cá cóc (Cyclocheilichthys enoplos) từ giai đoạn cá bột đến giai đoạn cá giống. Nghiên cứu được thực hiện trong ao có kích cỡ 10 m × 20 m và chiều sâu 1 m. Cá cóc bột (2 ngày tuổi) được ương với mật độ 200 con/m2 trong thời gian 30 ngày. Mẫu thực vật, động vật phiêu sinh và mẫu cá được thu vào các ngày tuổi thứ 2,3,4,5,6,7,9,11,16,21,26 và 31 để phân tích thành phần và số lượng của phiêu sinh vật và đặc điểm dinh dưỡng của cá cóc. Kết quả thể hiện rằng cá cóc (C. enoplos) bắt đầu ăn thức ăn ngoài lúc 2 ngày tuổi và Rotifera (Brachionus) là thức ăn chính của cá. Tỷ lệ chiều dài ruột và chiều dài chuẩn của cá dao động 0,742 – 0,827. Kích cỡ miệng của cá dao động 0,23 – 1,19 mm. Rotifera (Brachionus) và Nauplius được cá chọn lựa vào ngày thứ 5 và thứ 6 của quá trình ương. Từ ngày thứ 9 về sau Cladocera (Moina) và Copepoda (Mesocyclops) được cá chọn lựa. Cá cóc không chọn lựa thực vật phiêu sinh làm thức ăn. Thí nghiệm chỉ ra rằng cá cóc ăn động vật phiêu sinh từ giai đoạn cá bột đến cá giống 30 ngày. 
Từ khóa: Cá cóc, Cyclocheilichthys enoplos, chọn lựa thức ăn, RLG, cỡ miệng

Article Details

References

Hình 1: Tỷ lệ thực vật phiêu sinh trong môi trường thí nghiệm

Hình 1 cho thấy, ngày tuổi thứ 2 đến ngày 5 của thí nghiệm, tảo lục chiếm ưu thế trong môi trường (77,8 – 88%). Đến ngày 6 – 7 thì tảo mắt phát triển mạnh, với tỷ lệ chiếm 33,5 – 43,9% đã làm cho tỷ lệ tảo lục giảm còn khoảng 39,1 – 46,7%. Hai nhóm tảo lục và tảo mắt chiếm tỷ lệ cao chứng tỏ môi trường thí nghiệm đầy đủ dưỡng chất. Điều này tạo điều kiện để các loại thức ăn tự nhiên phát triển tốt, giúp cho cá thí nghiệm có nguồn thức ăn dồi dào.

Rotifera có số lượng loài lớn nhất và chiếm ưu thế trong suốt thời gian thí nghiệm. Trong thời gian đầu (ngày tuổi thứ 2), số lượng loài Rotifera (5 loài) thấp và sau đó tăng dần đến ngày 15 thì đạt số lượng loài cao nhất (15 loài) và số lượng loài được duy trì đến khi kết thúc thí nghiệm (ngày 30). Các giống loài Rotifer thường gặp là Brachionus angulagis, Brachionus falcatus, Brachionus calyciflorus, Keratella valga, Polyarthra vulgaris. Số lượng loài Cladocera và Copepoda tương đương nhau và cũng có xu hướng tăng dần theo thời gian. Thời gian đầu (ngày tuổi 2) số lượng loài của hai ngành này chỉ là 1 loài. Đến ngày 6 thì số lượng loài Cladocera và Copepoda đạt lần lượt là 5 và 4 loài, số lượng loài của 2 ngành này được duy trì ổn định đến khi kết thúc thí nghiệm.

Hình 2: Tỷ lệ thành phần động vật phiêu sinh trong môi trường

Hình 2 cho thấy, khi mới bắt đầu bố trí thí nghiệm (ngày 2), động vật phiêu sinh chiếm tỷ lệ cao trong môi trường là Nauplius (34,4%) và Rotifera (23,0%). Đến ngày thứ 3, Rotifera chiếm tỷ lệ cao nhất (67%). Từ ngày thứ 4 trở về sau, tỷ lệ Rotifera và Nauplius giảm xuống dần, trong khi đó tỷ lệ Cladocera và Copepoda tăng lên dần. Tỷ lệ Cladocera tăng lên cao nhất (58,7%) vào ngày thứ 7, trong khi đó tỷ lệ Copepoda tăng lên cao nhất (66,6%) vào ngày thứ 31. Càng về sau thì tỷ lệ động vật phiêu sinh có kích thước lớn hơn (Cladocera và Copepoda) có xu hướng tăng (Hình 2). Điều này đã tạo thuận lợi cho cá lựa chọn được những loại thức ăn phù hợp với cỡ miệng của chúng khi lớn lên theo thời gian.

Tỷ lệ thành phần động vật phiêu sinh xuất hiện trong ống tiêu hóa của cá cóc thay đổi khác nhau theo ngày tuổi của cá. Tỷ lệ thành phần động vật phiêu sinh trong ống tiêu hóa cá cóc được thể hiện ở Hình 3.

Hình 3 cho thấy, ở ngày tuổi thứ 2 thức ăn trong ống tiêu hóa của cá cóc là Nauplius và Rotifera (Brachionus) với tỷ lệ lần lượt là 77,8% và 22,2%. Các loại động vật phiêu sinh này xuất hiện trong ống tiêu hóa của cá cóc theo xu hướng giảm dần tỷ lệ Nauplius và tăng dần tỷ lệ Rotifera. Đến ngày thứ 5 thì tỷ lệ Nauplius chỉ còn 34,8% trong khi tỷ lệ Rotifera tăng lên 66,2%. Đến ngày thứ 5, cá cóc có xu hướng bắt những con mồi có kích thước lớn hơn (Rotifera) khi cỡ miệng cá tăng lên. Bên cạnh đó, tỷ lệ Rotifera trong môi trường cũng tăng lên rất nhanh vào ngày thứ 3 (67%) và được duy trì với tỷ lệ cao (41%) đến ngày thứ 5 (Hình 2). Trong nghiên cứu này, cá cóc ở 5 ngày tuổi có xu hướng bắt những con mồi có kích thước phù hợp với cỡ miệng và chiếm mật độ cao trong môi trường.

Hình 3: Tỷ lệ động vật phiêu sinh trong ống tiêu hóa cá cóc

Đến ngày thứ 6, trong hệ thống ống tiêu hóa cá cóc có sự xuất hiện của Cladocera (Moinna) (37,1%), tỷ lệ Nauplius và Rotifera giảm xuống với tỷ lệ lần lượt là 20% và 42,9%. Từ ngày thứ 7 về sau, trong ống tiêu hóa của cá cóc không còn xuất hiện Nauplius. Tỷ lệ Cladocera tăng lên chiếm tỷ cao nhất vào ngày thứ 9 với 56% và tỷ lệ Rotifera giảm còn 44%. Đến này thứ 11, trong ống tiêu hóa của cá cóc bắt đầu xuất hiện Copepoda (35,1%), Cladocera giảm xuống chỉ còn 39% và Rotifera còn 25,9%. Từ ngày thứ 16 đến ngày thứ 31, tỷ lệ thành phần động vật phiêu sinh trong ống tiêu hóa của cá cóc có xu hướng tăng dần tỷ lệ Copepoda và giảm dần tỷ lệ Cladocera (Hình 3).

Hệ thống tiêu hóa của cá cóc bột 2 ngày tuổi đã bắt đầu xuất hiện thức ăn ngoài (Nauplius của Mesocyclops) với hệ số lựa chọn là 0,386 (Bảng 5). Điều này chứng tỏ cá cóc bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài lúc 2 ngày tuổi. Các loại thức ăn tự nhiên như Rotifera, Cladocera và Copepoda có giá trị dinh dưỡng cao, có vai trò rất quan trọng trong ương nuôi, đặc biệt là ở giai đoạn cá con (Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh, 2013).

Bảng 3: Hệ số chọn lựa thức ăn của cá cóc

Cá bột thường sử dụng động vật phiêu sinh làm thức ăn ở giai đoạn đầu (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Từ ngày tuổi thứ 2 đến ngày thứ 6, cá cóc bột thể hiện rất rõ sự lựa chọn Nauplius làm thức ăn với chỉ số lựa chọn dao động trong khoảng 0,386 – 0,924. Từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 11, cá cóc bột bắt đầu lựa chọn Rotifera với hệ số lựa chọn lần lượt là 0,228 đến 0,513 (Bảng 3). Sự lựa chọn thức ăn của cá bột có ý nghĩa quyết định đến tỷ lệ sống của chúng trong quá trình ương nuôi. Thông thường cá bột chọn lựa những loại thức ăn phù hợp với kích cỡ miệng của chúng. Nauplius có kích thước nhỏ (0,06 – 0,1 mm) phù hợp với cỡ miệng của cá cóc bột ở giai đoạn đầu từ ngày tuổi 2 đến 6 (0,23 – 0,51 mm). Theo Shirota (1970), đa số các loài cá có thể sử dụng con mồi có kích cỡ tối đa bằng 45% cỡ miệng của cá. Từ ngày 2 đến ngày 6, cá cóc bột có kích cỡ miệng 0,23 – 0,51 mm, lựa chọn thức ăn Nauplius có kích cỡ 0,069 mm, tương đương 13,3 - 30% cỡ miệng cá. Ở một số nghiên cứu trên các loài cá khác cũng cho thấy cá bột có thể bắt được con mồi có kích thước từ 0,06 - 0,1 mm như cá bơn có thể bắt được mồi có kích cỡ 0,06 – 0,1 mm (Cunha và Planas, 1999), trong khi đó cá bống tượng có thể bắt được con mồi có kích cỡ 0,064 – 0,118 mm (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2002). Ở thời điểm 5 đến 11 ngày tuổi, cá cóc có khinh hướng chọn Rotifera làm thức ăn. Rotifera có kích thước dao động tương đối lớn (0,1 - 1 mm) và khác nhau tùy theo loài (Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh, 2013). Giai đoạn này, cá cóc bột có kích cỡ miệng từ 0,45 – 0,78 mm, do đó cá hoàn toàn có khả năng ăn Rotifera. Thêm vào đó, những loại phiêu sinh vật có nhiều kích cỡ thường được chọn lựa làm thức ăn, đặc biệt là đối với cá có miệng nhỏ (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2002). Đến ngày thứ 9 cá cóc chọn lựa Cladocera làm thức ăn với hệ số lựa chọn là 0,158. Từ ngày thứ 16 đến khi kết thúc thí nghiệm thì trong hệ thống ống tiêu hóa của cá cóc xuất hiện Cladocera và Copepoda với tỷ lệ rất cao (Hình 3). Khi cá bột lớn thì khả năng bắt mồi tăng vì cỡ miệng của cá gia tăng (Gill and Hart, 1994), kích cỡ mồi tiếp tục gia tăng cùng với cỡ miệng (Dabrowski and Bardega, 1984; Cunha and Planas, 1999).

Thời gian đầu, hai loại động vật phiêu sinh chiếm tỷ lệ cao trong môi trường là Nauplius (34,4%) và Rotifera (23,0%). Đến ngày thứ 3, Rotifera chiếm tỷ lệ cao nhất (67%) (Hình 2). Điều này đã giúp cho cá cóc khi mới thả có ngay thức ăn ban đầu để ăn. Cụ thể, chỉ số lựa chọn thức ăn của cá cóc đối với Nauplius là 0,386 vào ngày tuổi thứ 2, đến ngày thứ 4 đạt 0,875 (Bảng 3). Từ ngày thứ 5 đến 11 cá cóc đã chọn Rotifera làm thức ăn với chỉ số lựa chọn 0,288 – 0,513. Đến ngày thứ 9 thì cá cóc cũng chọn Cladocera làm thức ăn (0,158). Mật độ động vật phiêu sinh có ảnh hưởng lớn đến khả năng bắt mồi của cá, mật độ cao sẽ giúp cho cơ hội bắt được mồi của cá lớn hơn (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Cá cóc cũng có xu hướng chọn những loại thức ăn chiếm tỷ lệ cao trong môi trường như một số loài cá khác như Scophthalmus maximus (Van der Meeren, 1991) và Perca flavescens (Confer et al., 1990).

Cá con có cơ quan vận động chưa hoàn chỉnh nên chỉ bắt mồi di chuyển chậm và kiểu di chuyển đơn giản (Senoo et al., 1994). Cá cóc giai đoạn đầu bơi lội chậm, khả năng bắt mồi hạn chế. Vì vậy, cá chỉ có thể bắt được những động vật phiêu sinh có kiểu vận động chậm. Theo Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh, (2013) thì Nauplius có kiểu vận động theo hình zigzag từ dưới lên rồi thả tự do từ trên xuống. Kiểu vận động này thích hợp cho cá cóc giai đoạn nhỏ (2 đến 5 ngày tuổi) bắt mồi. Điều này thể hiện rõ trong kết quả lựa chọn thức ăn Nauplius của cá cóc ở 5 – 6 ngày tuổi vẫn rất cao (0,924-0,930) (Bảng 3).

Từ ngày thứ 16 đến khi kết thúc thí nghiệm, trong hệ thống ống tiêu hóa của cá cóc tỷ lệ các loại động vật phiêu sinh là Moina (38,8 – 46,8%) và Mesocyclops (23,2 – 66,6%). Ở thời điểm này, kích cỡ miệng của cá cóc đã đạt 0,93 – 1,19 mm nên có thể bắt được mồi có kích thước lớn như Moina (0,4 – 1,6 mm) và Mesocyclops (> 1 mm). Tuy nhiên, hệ số lựa chọn thức ăn của cá cóc đối với Moina và Mesocyclops rất thấp chỉ dao động trong khoảng 0,036 - 0,088 (Bảng 3). Vì vậy, cá cóc giai đoạn này có thể không chọn lựa thức ăn Cladocera và Copepoda, đây chỉ là hai loại thức ăn ngẫu nhiên mà cá ăn được trong điều kiện nuôi không có cho ăn và mật độ hai loại thức ăn này (Cladocera và Copepoda) chiếm rất cao trong môi trường (Hình 2). Như vậy, cá cóc giai đoạn từ ngày tuổi thứ 2 đến ngày 6 chọn lựa Nauplius, từ ngày thứ 5 đến 11 chọn Rotifera làm thức ăn. Cá cóc không có sự lựa chọn thực vật phiêu sinh làm thức ăn ở giai đoạn này.

Tỷ lệ chiều dài ruột và chiều dài chuẩn của cá dao động 0,742 - 0,827. Cá cóc giai đoạn từ cá bột đến cá giống 30 ngày có kích cỡ miệng dao động từ 0,23 đến 1,19 mm.

Cá cóc ăn thức ăn ngoài lúc 2 ngày tuổi và Nauplius là thức ăn ban đầu của cá. Cá cóc từ 2 đến 6 ngày tuổi chọn lựa Nauplius, từ ngày thứ 5 đến 11 cá lựa chọn Brachionus làm thức ăn. Cá cóc không chọn lựa thực vật phiêu sinh làm thức ăn.

Các yếu tố như kích thước con mồi, mật độ và kiểu vận động của con mồi có ảnh hưởng đến sự lựa chọn thức ăn của cá cóc.

Lời cảm tạ

Để thực hiện nghiên cứu này tác giả xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Cần Thơ đã tài trợ kinh phí trong khuôn khổ đề tài cấp Trường năm 2015. Cảm ơn sinh viên Trần Y Phụng lớp Nuôi trồng thủy sản K38 đã hỗ trợ trong việc thu và phân tích mẫu. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn cán bộ Bộ môn Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về thời gian, địa điểm và dụng cụ thu, phân tích mẫu.

Tài liệu tham khảo

Al-Hussainy, A.H., 1949. On the functional morphology of the alimentary tract of some fishes in relation to differences in their feeding habits. Quart. J. Micr. Sci. 9(2): 190-240

Baird, I.G., V. Inthaphaisy, P. Kisouvannalath, B. Phylavanh and B. Mounsouphom, 1999. The fishes of Southern Lao. Lao Community Fisheries and Dolphin Protection Project. Ministry of Agriculture and Forestry, Lao PDR.161p.

Confer, J. L., Mills, E. L. and O’Bryan, L. (1990). The influence of prey abundance on species and size selection by young yellow perch (Perca flavescens). Can. J. Fish. Aquat. Sci., 47, 882–887.

Cunha, I. and M. Planas. 1999. Optimal prey size for early turbot larvae (Scophthalmus maximus) base on mouth and ingested prey size. Aquaculture, 175: 103 - 110.

Dabrowski, K. and Bardega. 1984. Mouth size and predicted food size preferences of larvae of three cyprinid fishes species. Aquaculture 40: 41 - 46.

Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, Dương Đức Tiến và Mai Đình Yên, 2002. Thủy sinh học các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

Đặng Ngọc Thanh, Trần Thái Bái, Phạm Văn Miên, 1980. Định loại động vật không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học & Kỹ thuật Hà Nội.

Gill, A.B. & Hart, P.J.B., 1994. Feeding behaviour and prey choice of the threespine stickleback: the interacting effects of prey size, fish size and stomach fullness. — Anim. Behav. 47, p. 921-932.

Hồ Mỹ Hạnh, 2003. Khảo sát tính ăn và ảnh hưởng của mật độ, thức ăn lên sự tăng trưởng của cá rô đồng (Anabas testudineus) từ giai đoạn cá bột lên cá hương. Luận văn cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản –Trường Đại học Cần Thơ, 44 trang.

Hynes, H.B.N. 1950. The food of freshwater sticklebacks (Gasterosterus aculeatus and Pygosteus pungitius), with a review of the methods used in studies of the food of the fishes. J. Anim. Ecol. 19: 36 - 58.

Ivlev, V.S., 1961. Experimental ecology of the feeding of fishes. Translated from Russian by D. Scott. Yale University Press, Connecticut.

Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 299p.

Lieng S., C. Yim and N. V. Zalinge, 1995. Feshwater fisheries of Combodia, I: the bagnet (Dai) fishery in the Tonle Sap river Asian fisheries Science to 8; 255-262.

Ngô Trọng Lư và Nguyễn Kim Độ, 2006. Kỹ thuật nuôi thủy đặc sản nước ngọt tập III. Nhà xuất bản Nông nghiệp – TP Hồ Chí Minh. 84 trang.

Nguyễn Bá, 2007. Giáo trình thực vật học. Nhà xuất bản Giáo dục.279 trang.

Nguyễn Văn Triều, Nguyễn Anh Tuấn, Trần Ngọc Tuyền, 2010. Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng cá kết (Micronema bleekeri) giai đoạn từ bột lên hương. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Số (11): 58-63.

Nguyễn Văn Tuyên (2003). Đa dạng sinh học tảo trong thủy vực nội địa Việt Nam - Triển vọng và thử thách. NXB Nông nghiệp.

Nikolsky, G.V., 1963. Ecology of fishes. Academic press, London. Pp. 352.

Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất cá giống. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 215p.

Phạm Thanh Liêm, Abol - Munafi Ambok Bolong, Mohd Azmi Ambak., 2002. Sự chọn lựa thức ăn của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratius) giai đoạn cá bột. Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học - Trường Đại học Cần Thơ. Quyển số 2 Tr. 338 - 343.

Phạm Văn Khánh, Đặng Văn Trường và Thi Thanh Vinh, 2005. Sinh sản nhân tạo và nuôi cá Cóc (Cyclocheilichthys enoplos Bleeker, 1850). Trong Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long. Hội thảo quốc gia về phát triển thuỷ sản vùng hạ lưu sông Mekong Việt Nam. Trang 300-311. Nhà xuất bản Nông nghiệp.

Senoo S, Kaneko M, Cheah SH, Ang KJ (1994) Egg development, hatching, and larval development of marble goby Oxyeleotris marmoratus under artificial rearing conditions. Fish Sci 60: 1–8

Shirota, A., 1970. Studies on the mouth size of fish larvae, Bull. Jpn. Soc. Sci. Fish, 36. 353-368

Tăng Bảo Toàn và Trần Văn Việt, 2015. Đánh giá tình hình khai thác thủy sản mùa lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Phần b : Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ sinh học: 40 (2015)(1): 83-89.

Trần Thị Thanh Hiền, Phạm Thanh Liêm và Nguyễn Hương Thùy, 2007. Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng và khả năng sử dụng thức ăn chế biến để ương cá thát lát còm (Notopterus chilata) từ bột lên giống. Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ, 40 trang.

Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương. 1993. Định loại cá nước ngọt vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Khoa Thủy sản - ĐHCT. 361 trang.

Van der Meeren, T. 1991. Selective feeding and prediction of food consumption in turbot larvae (Scophthalmus maximus L.) reared on the rotifer Brachionus plicatilis and natural zooplankton. Aquaculture 93: 35-55.

Vũ Ngọc Út và Dương Thị Hoàng Oanh, 2013. Thực vật và động vật thủy sinh. NXB Đại học Cần Thơ. 354 trang.