Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ

Khung điểm Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ năm 2025

Ngày 11/7/2025, Hội đồng Giáo sư Nhà nước đã ban hành Quyết định số 26/QĐ-HĐGSNN phê duyệt danh mục tạp chí khoa học được tính điểm của 28 Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành năm 2025. Theo đó, Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ (https://ctujsvn.ctu.edu.vn/) được phê duyệt trong danh mục tạp chí khoa học được tính điểm của 20 Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành năm 2025. Trong đó, Tạp chí được 1 Hội đồng công nhận mới và 2 Hội đồng nâng điểm.

Nghiên cứu ứng dụng siêu tụ điện khởi động xe gắn máy

Nguyễn Khắc Bằng, Phan Tấn Tài*
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm một giải pháp ứng dụng siêu tụ điện tích trữ năng lượng điện trên xe gắn máy thay thế cho accu để khởi động điện cho động cơ, đèn tín hiệu,… Siêu tụ điện có ưu điểm nạp, xả nhanh, độ bề cao, thân thiện với môi trường. Trong nghiên cứu, phương án tính toán, thiết kế bộ gồm 6 siêu tụ điện 350 F – 2,7 V thay thế cho accu để khởi động động cơ xe gắn máy với thời gian nạp nhanh hơn 50 lần, số lần khởi động động cơ đạt 5 đến 10 lần (mỗi lần 3 giây), trọng lượng nhẹ hơn 5,6 lần so với accu được trình bày. Kết quả thực nghiệm cho thấy việc dùng siêu tụ thay thế accu để khởi động xe gắn máy là hoàn toàn khả thi.

Định lượng flavonoid và khảo sát hoạt tính sinh học của cao chiết củ nghệ trắng (Curcuma aromatica Salisb)

Nguyễn Thị Bích Thuyền*, Cao Lưu Ngọc Hạnh, Huỳnh Liên Hương, Võ Quốc Thái
Tóm tắt | PDF
Trong nghiên cứu này, nguyên liệu được sử dụng là củ nghệ trắng (Aromatica Salisb extracts) được trồng và thu hoạch tại huyện Prông Pắk, tỉnh Đắk Lắk. Bột nguyên liệu được chiết flavonoid bằng 4 loại dung môi (ethyl acetate, ethanol, acetone và petroleum ether) bằng phương pháp ngâm để thu được cao chiết tương ứng. Tiếp theo đó, cao chiết có hàm lượng flavonoid cao nhất được xác định hoạt tính sinh học, bao gồm: hoạt tính kháng oxy hóa, kháng vi sinh vật và kháng viêm. Kết quả khảo sát hoạt tính kháng oxy hóa bằng phương pháp DPPH cho thấy cao chiết củ nghệ trắng có khả năng kháng gốc tự do DPPH với giá trị IC50 = 837,06 ± 1,34 µg.mL-1. Kết quả khảo sát hoạt tính kháng vi sinh vật của cao chiết củ nghệ trắng bằng phương pháp khuếch tán qua đĩa thạch cho thấy cao chiết có khả năng ức chế 7 loại vi sinh vật gây bệnh. Tuy nhiên, cao chiết nghệ trắng có tính kháng viêm yếu.

Thiết kế và phát triển mô hình xe tự hành vận chuyển và quản lí hàng hóa trong kho hàng

Trần Thuận Tiến, Trà Quốc Thanh, Trần Nguyễn Phương Lan, Nguyễn Chí Ngôn, Huỳnh Quốc Khanh*
Tóm tắt | PDF
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0,  việc thiết kế và phát triển mô hình xe tự hành, nhằm tự động hóa quá trình vận chuyển và quản lý hàng hóa trong kho được tập trung nghiên cứu trong bài viết góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và tối ưu hóa chi phí vận hành. Module WiFi D-DWM-PG3.6 được sử dụng để định vị xe. Mô hình được kiểm tra trong không gian thí nghiệm có diện tích 100 m², có khả năng vận chuyển vật phẩm nhỏ kích thước tối đa 20 × 20 cm. Quỹ đạo di chuyển được thiết lập thông qua hệ tọa độ hai chiều. Sau hơn 50 lần thử nghiệm cho thấy độ chính xác đạt sai số xấp xỉ 10,4 ± 5,1 cm so với quỹ đạo mong muốn. Bên cạnh đó, một ứng dụng di động được phát triển để điều khiển xe và quản lý đơn hàng theo thời gian thực. Kết quả cho thấy hệ thống góp phần cải thiện quy trình vận hành kho hàng. Tuy nhiên, vùng diện tích khảo sát cần được tiếp tục mở rộng ở các nghiên cứu tiếp theo để có thể đáp ứng với các kho hàng lớn.

Ứng dụng phương pháp GNSS tĩnh và động thời gian thực trong quan trắc chuyển vị bản mặt cầu công trình cầu dây văng

Nguyễn Việt Hà, Vũ Ngọc Quang*
Tóm tắt | PDF
Bài báo được thực hiện nhằm nghiên cứu, phân tích hiệu suất quan trắc công trình cầu dây văng sử dụng hệ định vị vệ tinh toàn cầu với hai phương pháp đo tĩnh xử lý sau và đo động thời gian thực với máy thu Topcon MR2. Trong nghiên cứu, kết quả từ một anten quan trắc trên công trình cầu dây văng trong thời gian 9 ngày từ 21/07/2022 đến 29/07/2022 đã được sử dụng với tổng số lượng 216 trị đo, thời gian đo tĩnh của mỗi ca là một giờ đồng hồ. Với phương pháp đo động thời gian thực, 86400 trị đo, ở tần suất 1 giây đã được sử dụng trong nghiên cứu. Kết quả phân tích cho thấy phương pháp đo tĩnh có biên độ dao động nhỏ hơn nhiều lần so với phương pháp đo động thời gian thực xét trong thời gian một ngày và cả khi lấy trung bình theo thời gian một giờ đồng hồ với phương pháp đo động. Về xu hướng, cả hai đều thể hiện cùng một xu hướng khi cho kết quả dao động theo phương ngang ngang cầu là nhỏ nhất, tiếp theo là phương ngang dọc cầu và cuối cùng là phương đứng.

Nghiên cứu hệ thống theo dõi mặt trời trục kép sử dụng điều khiển Arduino

Nguyễn Thái Sơn*, Nguyễn Thái Hòa, Nguyễn Trần Đăng Khoa, Tăng Thành Tính, Nguyễn Văn Ngây, Nguyễn Thị Hồng Bích, Quách Ngọc Thịnh, Trần Trung Tính
Tóm tắt | PDF
Hiện nay, nhu cầu về năng lượng tái tạo trên toàn cầu đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là năng lượng mặt trời, một lĩnh vực đang thu hút nhiều sự chú ý. Tuy nhiên, khả năng thu năng lượng của các tấm pin mặt trời vẫn chưa đạt được tối ưu khi để ở một vị trí cố định. Để khắc phục điều này, nhiều nghiên cứu được thực hiện đã phát triển cơ chế trục kép cho tấm pin, giúp điều chỉnh góc nghiêng của tấm pin theo hướng ánh sáng mặt trời. Kết quả là tấm pin tự động xoay để tối đa hóa lượng năng lượng thu nhận. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm tập trung vào việc khảo sát công suất thu được của tấm pin mặt trời kết hợp hệ thống theo dõi mặt trời trục kép tại Khoa Kỹ thuật Điện, Trường Bách Khoa, Đại học Cần Thơ bằng cách sử dụng vi điều khiển Arduino để nhận tín hiệu từ quang trở sau đó xử lí tín hiệu và điều khiển động cơ xoay tấm pin tới vị trí chính diện Mặt trời để nhận bức xạ tốt nhất. Kết quả thực nghiệm cho thấy công suất thu được của hệ thống trục kép theo dõi điện mặt trời cao hơn hệ thống theo điện mặt trời cố định khoảng 22%.

Xây dựng công thức kem hỗ trợ chống lão hóa từ cao chiết nghệ đen

Nguyễn Thị Bích Thuyền*, Hồ Quốc Phong, Nguyễn Việt Nhẫn Hòa
Tóm tắt | PDF
Củ nghệ đen được thu hoạch tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, đem về rửa sạch, sấy khô, xay nhỏ và tiến hành chiết cao bằng ethyl acetate. Cao chiết được nghiên cứu 12 công thức phối chế kem hỗ trợ chống lão hóa bằng phương pháp nhũ hóa. Mẫu kem có thông số tốt nhất được tiếp tục đánh giá các chỉ tiêu chất lượng theo qui định quản lý mỹ phẩm của Bộ Y tế và đánh giá cảm quan. Kết quả đánh giá cho thấy, kem đạt các yêu cầu chất lượng theo theo qui định quản lý mỹ phẩm của Bộ Y tế và người tiêu dùng.

Ước lượng trạng thái sử dụng bộ lọc Kalman mở rộng cho các tuabin gió sử dụng máy phát đồng bộ nam châm vĩnh cửu

Nguyễn Lam, Nguyễn Minh Hòa*
Tóm tắt | PDF
Các tuabin gió là các hệ thống có động học phức tạp, phi tuyến và thay đổi theo thời gian. Do vậy, việc giám sát và điều khiển tuabin gió cần phải đo lường nhiều biến vật lý bằng các cảm biến khác nhau, dẫn tới tốn nhiều chi phí đầu tư hoặc bảo trì. Vì vậy nhiều phương pháp ước lượng dùng Matlab mô phỏng đã được đề xuất để hạn chế sử dụng các cảm biến trong hệ thống điều khiển tuabin gió. Trong bài báo này, kết quả nghiên cứu thiết kế bộ ước lượng các biến trạng thái cho các tuabin gió sử dụng máy phát điện đồng bộ nam châm vĩnh cửu đã được trình bày. Bộ ước lượng được xây dựng dựa trên nguyên lý của bộ lọc Kalman mở rộng dùng cho các hệ thống phi tuyến. Bộ ước lượng sau khi thiết kế được áp dụng và mô phỏng trong hai kịch bản vận hành tuabin gió, với các thông số hệ thống không đổi và thay đổi. Kết quả cho thấy giá trị ước lượng bám sát giá trị thực, và bộ ước lượng đều hội tụ trong cả hai trường hợp mô phỏng.

Đánh giá khả năng xử lý mangan trong nước bằng vật liệu lọc được bổ sung NaClO

Đỗ Thị Mỹ Phượng, Bùi Minh Trí, Đỗ Minh Châu, Phan Thị Thanh Tuyền, Nguyễn Xuân Lộc*
Tóm tắt | PDF
Ô nhiễm mangan (Mn2+) trong nước sinh hoạt tại Việt Nam đang vượt ngưỡng cho phép, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả loại bỏ Mn2+ trong nước bằng phương pháp lọc, kết hợp với tác dụng hỗ trợ oxy hóa của NaClO. Thí nghiệm được thực hiện trên mô hình cột lọc quy mô phòng thí nghiệm với nước nhiễm Mn2+ nhân tạo và ba loại vật liệu lọc: cát thạch anh, cát mangan và zeolit. Các thông số khảo sát bao gồm: nồng độ Mn2+ đầu vào (5 – 25 mg/L), nồng độ và thể tích NaClO (2 – 10 mg/L, 2 – 10 mL), thời gian phản ứng (1 – 8 giờ), ở pH 7 ± 0,2 và nhiệt độ ~25°C. Nồng độ Mn2+ được phân tích theo TCVN 6002:1995 bằng phương pháp trắc quang sử dụng formaldoxim. Kết quả cho thấy zeolit hiệu quả cao nhất (97,7% không NaClO; 99,8% có NaClO) nhờ xúc tác tạo MnOx trên bề mặt. Mn²⁺ sau xử lý < 0,1 mg/L, đạt QCVN 01-1:2018/BYT. NaClO góp phần nâng hiệu suất xử lý, khẳng định tiềm năng ứng dụng trong hệ thống nước sinh hoạt.

Tổng hợp hệ nhũ tương dầu/nước dựa trên nền tinh dầu bưởi hướng tới ứng dụng trong mỹ phẩm

Nguyễn Việt Nhẩn Hoà, Nguyễn Thị Yến Nhi, Lâm Thị Mỹ Anh, Đỗ Thị Kim Cương, Võ Thị Tuyết Anh, Trần Lê Hoa Trinh, Nguyễn Cường Quốc, Nguyễn Duy Tuấn*
Tóm tắt | PDF
Hệ vi nhũ dầu/nước (O/W) trên nền tinh dầu trích ly từ vỏ bưởi Năm Roi đã được tổng hợp thành công bằng phương pháp rung siêu âm và tween 80 làm chất làm bền nhũ. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của tỷ lệ thể tích các thành phần như tween 80, nước cất và tinh dầu đến độ bền của hệ vi nhũ đã được khảo sát. Ngoài ra, các hệ nhũ bền cũng được đánh giá hoạt tính kháng khuẩn và nấm, cảm quan và mức độ kích ứng da. Kết quả thực nghiệm cho thấy có 9 trong 27 hệ nhũ bền trên 60 ngày ở nhiệt độ phòng với kích thước trung bình đo DLS khoảng 6,28 - 13,46 μm. Hệ nhũ tương bền với nồng độ tinh dầu 2% (v/v) không thể hiện khả năng kháng khuẩn và nấm đối với Staphylococcus aureus, Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa và Candida albicans. Các mẫu bền cho kết quả cảm quan tốt và an toàn với da.

Đặc điểm hình thái tế bào máu ngoại vi của cá chốt chuột Pseudomystus siamensis (Regan, 1913)

Trần Thị Anh Thư*, Lê Phước Lâm, Trần Chí Bảo, Nguyễn Thị Thúy Hằng, Lâm Hải Đăng, Nguyễn Trọng Hồng Phúc
Tóm tắt | PDF
Cá chốt chuột Pseudomystus siamensis là loài cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao ở đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, loài này bị khai thác quá mức dẫn đến suy giảm số lượng trong tự nhiên. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu đặc điểm hình thái tế bào máu ngoại vi của cá chốt chuột làm cơ sở huyết học cho việc đánh giá tình trạng sức khỏe của loài trong chăn nuôi. Cá được mua từ các bè nuôi ở Cồn Sơn, Cần Thơ; lấy máu tĩnh mạch đuôi và nhuộm bằng Giemsa. Kết quả ghi nhận máu ngoại vi của cá chốt chuột gồm hồng cầu hình bầu dục, nhân dạng oval điển hình; tiểu cầu hình thoi có nhân tròn hoặc oval; nhân của bạch cầu đơn nhân hình hạt đậu với các hạt không bào trong tế bào chất; Lympho bào có nhân hình bầu dục, màng tế bào kéo dài thành chân giả; nhân bạch cầu trung tính lớn, hình móng ngựa; bạch cầu ưa acid hình cầu, nhân dạng hình que phân thùy. Bạch cầu ưa kiềm rất ít, hình cầu, nhân to hình bầu dục hoặc hình que phân thùy.

Khôi phục và xấp xỉ hàm số bằng phương pháp tuyến tính trong không gian Besov với độ trơn hỗn hợp

Nguyễn Mạnh Cường*
Tóm tắt | PDF
Bài báo được thực hiện nhằm nghiên cứu việc khôi phục và xấp xỉ hàm số trong không gian Besov có độ trơn hỗn hợp. Các phương pháp tuyến tính từ giá trị lấy mẫu được xây dựng để khôi phục hàm số thuộc không gian Besov và đánh giá tiệm cận tốc độ hội tụ của phương pháp. Kết quả chính của bài báo là mở rộng và tổng quát các kết quả đã có.

Nghiên cứu chế tạo màng chưng cất để xử lý và tái sử dụng nước thải dệt nhuộm

Nguyễn Thị Hậu, Huỳnh Thanh Trúc, Nguyễn Thị Thu Uyên, Mai Thị Nguyệt, Nguyễn Thị Liên, Võ Thị Hoàng Mỹ, Lê Quang Huy, Nguyễn Công Nguyên*
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khám phá tiềm năng của công nghệ chưng cất màng (Membrane distillation-MD) như quy trình một bước để xử lý và tái sử dụng nước thải nhuộm từ ngành dệt nhuộm.Trong nghiên cứu, việc tổng hợp màng MD được tiến hành bằng cách sử dụng các dung dịch đảo pha có tỉ lệ thể tích H2O/Isoamyl alcohol khác nhau nhằm nâng cao tính kỵ nước, tăng thông lượng dòng nước thấm và  hiệu suất loại bỏ độ màu. Kết quả cho thấy, màng MD tối ưu,với tỉ lệ thể tích H2O/Isoamyl alcohol là 50:50, đạt được thông lượng dòng nước thấm cao (18,05 L/m2 h) và hiệu quả loại bỏ độ màu 99,69%,cùng với hiệu suất thu hồi nước đạt 60,35% sau 16 giờ vận hành. Ngoài ra, màng MD tổng hợp trong nghiên cứu này cho thông lượng dòng nước thấm cao hơn khoảng 1,3 lần so với màng MD thương mại nhờ vào độ xốp lớn hơn.Kết quả chứng minh rằng isoamyl alcohol có thể cải thiện hiệu quả của màng MD,mang lại giải pháp bền vững cho việc thu hồi phẩm màu và xử lý nước thải trong ngành dệt bằng cách tận dụng nhiệt thải từ nước thải nhuộm.Một cách tổng thể, màng MD tổng hợp trong nghiên cứu này có triển vọng là giải pháp hiệu quả để giải quyết các thách thức về xử lý nước thải trong ngành dệt nhuộm tại thành phố Bảo Lộc hiện nay.

Hiệu quả của thảo dược lá bàng và lá sen trong việc giảm stress và tăng cường khả năng kháng vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh ở cá cảnh

Thị Hoa Rôl, Đoàn Minh Phụng, Đinh Thị Thủy, Trần Ngọc Quốc Tường, Trần Phạm Vũ Linh, Nguyễn Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Vũ*
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của cao chiết từ lá bàng (Terminalia catappa) và lá sen (Nelumbo nucifera) trong việc giảm stress oxy hóa và tăng cường khả năng đề kháng với vi khuẩn Edwardsiella ictaluri ở cá cảnh. Phương pháp nghiên cứu được dùng như sau: chiết xuất bằng ethanol 70%, xác định nồng độ an toàn, phối trộn với các tỉ lệ khác nhau, sau đó đánh giá khả năng chống stress oxy hóa (sử dụng H₂O₂) và kháng khuẩn trên ba loài cá cảnh phổ biến: cá ngựa vằn (Danio rerio), cá cầu vồng (Melanotaeniidae), cá cánh buồm (Gymnocorymbus ternetzi). Kết quả cho thấy nồng độ an toàn của cao chiết lá bàng và lá sen lần lượt là 100 µg/mL và 75 µg/mL. Tỉ lệ phối trộn là 75% lá bàng : 25% lá sen (75 LB : 25 LS) cho tỷ lệ sống (TLS) >80% khi cá chịu stress oxy hóa và >40% khi cá bị cảm nhiễm với E. ictaluri. Hàm lượng phenolic tổng và flavonoid tổng của hỗn hợp này lần lượt là 458,34 ± 25,34 mg GAE/g và 332,41 ± 19,21 mg QE/g, cao hơn so với cao chiết riêng lẻ. Như vậy, hỗn hợp cao chiết lá bàng và lá sen có tiềm năng ứng dụng để hỗ trợ giảm bớt việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản cảnh, góp phần hướng tới mô hình nuôi cá bền vững và an toàn.

Đánh giá tác dụng chống lão hóa da của chế phẩm FGF-2 lên mô hình chuột và định hướng tạo mỹ phẩm phục hồi da lão hóa

Nguyễn Trọng Bình*, Phạm Thị Vàng
Tóm tắt | PDF
Ngày nay, tình trạng lão hóa da đang trở nên phổ biến, các nguyên nhân chính dẫn đến lão hóa da là do tuổi tác, tác động của tia tử ngoại, ánh sáng mặt trời. Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi-2 (FGF-2) là một loại protein đa chức năng được lựa chọn và quan tâm để nghiên cứu sâu hơn về vai trò trong việc ngăn chặn cũng như điều trị lão hóa da. Nghiên cứu được thực hiện trên mô hình chuột lão hóa da. Kết quả cho thấy sau 3 tuần thử nghiệm ở nhóm thoa chế phẩm chứa 5 ng và 25 ng FGF-2 bề mặt da trở nên căng mịn hơn, không còn thấy nhiều sắc tố trên bề mặt da, số lượng nếp nhăn giảm, độ đàn hồi da phục hồi, tăng sinh collagen, nguyên bào sợi, các sợi protein bắt màu tốt với thuốc nhuộm, có sự phát triển tế bào nang lông, tương đương với nhóm chuột đối chứng bình thường và không thấy sự cải thiện nào trên da ở nhóm lão hóa bôi nước muối sinh lý.

Tuyển chọn và định danh chủng vi khuẩn fructophilic lactic có một số đặc tính sinh học của probiotic

Huỳnh Ngọc Thanh Tâm, Trần Vũ Phương, Huỳnh Yến Nhi*
Tóm tắt | PDF
Nhằm tìm kiếm nguồn probiotic mới, nghiên cứu này đã được thực hiện với mục đích tuyển chọn được chủng vi khuẩn lactic ưa fructose (FLAB) tiềm năng từ sáp ong. Từ 15 chủng vi khuẩn phân lập đã xác định được chủng AG1.4 là chủng vi khuẩn probiotic tiềm năng nhất. AG1.4 được định danh thuộc nhóm Lactiplantibacillus với độ tương đồng 100%. Chủng vi khuẩn  này thể hiện khả năng bám dính dung môi cao đạt 91,65%, hoạt tính kháng khuẩn mạnh chống lại vi khuẩn E. coli và S. aureus với đường kính vòng kháng khuẩn đạt lần lượt là 12,67 mm và 14,33 mm. Ngoài ra, AG1.4 còn có khả năng  kháng cả ba loại kháng sinh ampicillin (10 µg/mL), tetracyclin (30 µg/mL) và  ofloxacin (30 µg/mL), đây cũng là chủng duy nhất có khả năng phân giải đồng thời tinh bột, protein và cellulose. Khả năng sử dụng fructose và các đặc tính sinh học độc đáo được mang lại từ chủng AG1.4 sẽ mở ra hướng phát triển mới về các sản phẩm lên men chức năng mới, đa dạng hóa nguồn probiotic, góp phần đảm bảo an toàn của thực phẩm đồng thời nâng cao giá trị dinh dưỡng cho con người.

Nghiên cứu phát triển sản phẩm thạch trái cây vị xoài (Mangifera indica L.) bổ sung collagen thủy phân từ da cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

Lê Thị Minh Thủy*, Trương Thị Mộng Thu
Tóm tắt | PDF
Các yếu tố công nghệ chính như: nồng độ chất tạo đặc, nồng độ collagen thủy phân và thời gian bảo quản lạnh cho sản phẩm thạch trái cây vị xoài bổ sung collagen thủy phân từ da cá tra đã được nghiên cứu để có chất lượng tốt nhất. Kết quả đánh giá cho thấy nồng độ agar 1,2% cho sản phẩm thạch xoài có độ đàn hồi tốt 319 g, b*= 29,9 và điểm cảm quan cao nhất là 18,7 điểm. Khi kết hợp với gelatin ở nồng độ 0,6% sản phẩm đạt độ đàn hồi thích hợp 318 g, b*= 29,5 và chất lượng cảm quan tốt nhất là 18,6 điểm.  Collagen thủy phân với nồng độ 1% được bổ sung giúp gia tăng hoạt tính chống oxy hóa của sản phẩm lên 81,9%, đồng thời giúp duy trì độ đàn hồi, màu sắc và điểm cảm quan cao nhất là 18,6 điểm. Sản phẩm được bao gói, bảo quản ở điều kiện nhiệt độ lạnh (0-4℃) vẫn đảm bảo chất lượng và an toàn vi sinh trong 4 tuần.

Khảo sát hiện trạng canh tác nhãn và hô hấp vi sinh vật đất vườn trồng nhãn lâu năm tại huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Minh Phượng, Đỗ Thành Luân, Lê Thị Xã, Nguyễn Khởi Nghĩa*
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát hiện trạng canh tác nhãn và hô hấp vi sinh vật đất trồng nhãn trên 15 năm tại huyện Long Hồ, Vĩnh Long với 30 hộ nông dân trồng nhãn Xuồng cơm vàng. Hô hấp của vi sinh vật đất được xác định bằng phương pháp đo CO₂ tích lũy theo thời gian. Kết quả cho thấy, mật độ trồng trung bình đạt 260 cây/ha. Lượng phân vô cơ bón trung bình là 1150 - 874 - 860 g N-P2O5-K2O/cây/năm, với hàm lượng đạm cao hơn mức khuyến nghị, gây mất cân đối dinh dưỡng. Phân hữu cơ trung bình bón 8,39 kg/cây/năm. Năng suất nhãn trung bình đạt 13,2 tấn/ha/năm có sự chênh lệch giữa các vườn do khác biệt về điều kiện canh tác và quản lý dinh dưỡng. Tốc độ hô hấp của vi sinh vật đất khác nhau đáng kể giữa các vườn khảo sát. Tốc độ hô hấp đạt cao nhất ở nhóm đất có tuổi liếp 15 – 25 năm, thấp nhất ở nhóm 46 – 60 năm. Kết quả này cho thấy sự suy giảm hoạt động của vi sinh vật đất theo thời gian canh tác.

Khảo sát loài cây xanh vùng đất nhiễm mặn có tiềm năng ứng dụng trang trí cảnh quan tại Thanh Phú – Bến Lức – Long An

Phạm Thị Bích Phương*, Vũ Thanh Hải
Tóm tắt | PDF
Trong nghiên cứu, loài cây xanh vùng đất nhiễm mặn có tiềm năng ứng dụng trong trang trí cảnh quan tại khu vực Thanh Phú – Bến Lức – Long An đã được khảo sát. Thông qua việc điều tra xác định tên loài thực vật, đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng, đặc điểm hoa, quả và đánh giá khả năng ứng dụng của các loài thực vật bản địa trong trang trí cảnh quan. Kết quả cho thấy, 46 loài cây xanh sinh trưởng và phát triển tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên tại khu vực nghiên cứu. Trong đó, 26/46 loài cây xanh đã được sử dụng trong trang trí cảnh quan, 20/46 loài cây xanh mọc tự nhiên được đánh giá ở mức độ phù hợp ứng dụng trang trí cảnh quan. Bên cạnh đó, hướng sử dụng 46 loài cây xanh trong trang trí cảnh quan dựa vào phân khu công năng của khu đô thị sinh thái cũng đã được đề xuất trong nghiên cứu.

Chuyển đổi số trong kinh doanh nông sản OCOP tại Tiền Giang: Thực trạng, thách thức và giải pháp

Trần Lâm Duy*
Tóm tắt | PDF
Chuyển đổi số (CĐS) trong kinh doanh OCOP tại Tiền Giang đang là xu hướng tất yếu, giúp nâng cao giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường. Nghiên cứu này đánh giá mức độ ứng dụng công nghệ số, nhận diện rào cản và đề xuất giải pháp thúc đẩy CĐS gắn với phát triển nông thôn. Kết quả khảo sát 70 chủ thể OCOP (tỷ lệ hồi đáp 43,8%) cho thấy 67,1% kết hợp bán hàng trực tuyến và truyền thống, 77,2% ghi nhận CĐS giúp cải thiện hoạt động. Khó khăn chính gồm hạn chế kỹ năng công nghệ (40%), thiếu thời gian (32,9%) và thiếu thông tin về hỗ trợ chính sách (gần 60% chưa tận dụng). Mặc dù kết quả được ghi nhận là 90% đánh giá hạ tầng internet ở mức trung bình trở lên, chỉ 17,2% thường xuyên dùng TikTok Shop hay Shopee, nhưng 88,6% dự định tham gia. Từ đó, các khuyến nghị được đề xuất như ưu tiên đào tạo kỹ năng số, đẩy mạnh truyền thông chính sách và hoàn thiện hạ tầng công nghệ, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho chủ thể OCOP và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn bền vững.

Ảnh hưởng của Brassinolide xử lý trước thu hoạch đến năng suất và chất lượng trái quýt hồng (Citrus recticulata Blanco)

Trịnh Xuân Việt, Trần Ngọc Quý, Phạm Thị Phương Thảo, Lê Văn Hòa, Nguyễn Văn Ây*
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu nhằm tìm ra liều lượng và thời gian phun Brassinolide thích hợp trước thu hoạch góp phần gia tăng năng suất và chất lượng trái quýt hồng. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên, thừa số hai nhân tố: (A) Brassinolide; (B) số lần phun. Kết quả cho thấy việc xử lý Brassinolide trước thu hoạch góp phần cải thiện đáng kể một số chỉ tiêu về năng suất và chất lượng trái, bao gồm độ Brix, màu sắc vỏ trái và tỷ lệ khô đầu múi. Trong đó, Brassinolide ở nồng độ 1 ppm và xử lý ở 113 và 105 ngày trước thu hoạch đạt hiệu quả tối ưu nhất, đã làm tăng khối lượng trái (61,54 g), làm tăng năng suất tổng (67,70 tấn/ha), đồng thời làm giảm đáng kể tỷ lệ khô đầu múi trái. Hơn nữa việc xử lý Brassinolide ở nồng độ này giúp làm gia tăng một số chỉ tiêu về phẩm chất của trái (độ Brix thịt trái: 13,47%, tỷ lệ trái bị khô đầu múi: 6,49%, tỷ lệ múi khô/trái: 5,74%, tỷ lệ chiều dài múi khô: 2,88%).

Phân lập và tuyển chọn một số dòng vi khuẩn có khả năng hòa tan lân từ đất canh tác nhãn tại tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Khởi Nghĩa, Đỗ Thành Luân, Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Minh Phượng*
Tóm tắt | PDF
Lân (Phosphate) là một nguyên tố dinh dưỡng đa lượng quan trọng đối với cây trồng, tuy nhiên tính hữu dụng của lân thường giới hạn do phần lớn lân trong đất tồn tại ở dạng không hòa tan. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân lập và tuyển chọn các dòng vi khuẩn có khả năng hòa tan lân từ đất trồng nhãn lâu năm tại Vĩnh Long. Vi khuẩn hòa tan lân được phân lập bằng môi trường NBRIP agar. Kết quả nghiên cứu phân lập được 34 dòng vi khuẩn với hình thái khuẩn lạc và tế bào rất đa dạng có khả năng hòa tan lân. Đặc biệt, dòng VL2.3 và VL13.3 hòa tan lân đạt 1603 mg/L và 1269 mg/L sau 7 ngày, tổng hợp enzyme phytase cao nhất với 2,94 và 2,42 µmol/phút sau 5 ngày và duy trì tương đối ổn định chức năng theo thời gian khảo sát. Tóm lại, hai dòng vi khuẩn VL2.3 và VL13.3 phân lập từ đất trồng nhãn ở Vĩnh Long hỗ trợ chuyển hóa và phóng thích lân khó tan trong đất giúp tăng lượng lân hữu dụng cung cấp cho cây trồng.

Phân tích khía cạnh kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi lươn đồng trong bể ở tỉnh Hậu Giang

Nguyễn Thanh Long*, Huỳnh Văn Hiền, Trần Trường Giang
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 12/2024 nhằm đánh giá hiệu quả của mô hình nuôi lươn trong bể các huyện Long Mỹ, Vị Thanh và Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 52 hộ nuôi lươn trên bể về khía cạnh kỹ thuật, tài chính và những thuận lợi khó khăn. Kết quả cho thấy Mô hình nuôi lươn trên bể đã đem lại thu nhập cho nông dân. Với mật độ thả nuôi trung bình 686 con/m² và thời gian nuôi trung bình 333 ngày/vụ, mô hình đạt năng suất 1.243 kg/10m²/vụ, tỉ lệ sống đạt 79,7%. Bên cạnh đó, với doanh thu bình quân 99,7 triệu đồng/10m²/vụ và chi phí sản xuất 72,7 triệu đồng/10m²/vụ, mô hình này mang lại lợi nhuận trung bình 27,1 triệu đồng/10m²/vụ với tỉ suất lợi nhuận là 0,33 lần, cho thấy mô hình này có tiềm năng và đem lại thu nhập cho người nuôi lươn. Khó khăn lớn nhất là lươn bị bệnh và chi phí sản xuất cao.

Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp bảo vệ nguồn lợi thủy sản ở vùng biển ven bờ tỉnh Bình Định

Từ Hoàng Nhân*
Tóm tắt | PDF
Kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ các vùng tập trung cao của nguồn giống thủy sản và thời gian sinh sản chính của một số loài thủy sản kinh tế ở vùng biển Bình Định. Trứng cá, cá con tập trung nhiều vào mùa gió Đông Bắc, đặc biệt tại ba khu vực chính: cửa sông Lại Giang, cửa Đề Gi và vịnh Quy Nhơn với mật độ trung bình đạt 1.020 trứng cá và 20 cá con/1.000 m3 nước biển. Nguồn giống tôm cũng tập trung tại ba vùng này với mật độ cao, đặc biệt tại cửa Đề Gi và vịnh Quy Nhơn với mật độ cao nhất đạt trên 2.000 cá thể/1.000 m3 nước biển. Mùa gió Tây Nam có sự suy giảm rõ rệt về mật độ và sự dịch chuyển về không gian phân bố. Phần lớn các loài hải sản trong khu vực sinh sản nhiều lần trong năm. Giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 5 được xác định là mùa sinh sản chính, tháng 7 là mùa sinh sản phụ. Từ kết quả phân tích, hai khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn thuộc vùng cửa sông Lại Giang và vùng biển ven bờ Phù Mỹ với tổng diện tích cần bảo vệ khoảng 8.400 ha đã được đề xuất trong nghiên cứu. Thời gian cấm khai thác với các loại nghề có tính xâm hại nguồn lợi cao từ ngày 1/3 đến ngày 31/5 hàng năm.

Ảnh hưởng của xử lý hến và bổ sung bột đạm thủy phân từ đầu cá lóc (Channa striata) đến chất lượng sản phẩm canh hến (Corbiculidae) rong biển sấy khô

Trương Thị Mộng Thu, Lê Thị Minh Thủy*
Tóm tắt | PDF
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình xử lý hến và bổ sung bột đạm thủy phân từ đầu cá lóc trong sản xuất sản phẩm canh hến rong biển sấy khô được tiến hành qua bốn thí nghiệm: (i) ảnh hưởng của loại dung dịch và thời gian ngâm hến, (ii) nhiệt độ sấy đến chất lượng hến sấy,  (iii) tỷ lệ kết hợp giữa bột đạm thủy phân và hến sấy và (iv) sự thay đổi chất lượng sản phẩm theo thời gian bảo quản ở nhiệt độ phòng. Kết quả cho thấy, việc ngâm hến trong dung dịch acid acetic 25% - NaCl 2% trong 10 phút và sấy ở 60°C cho hến sấy đạt độ ẩm 7,99%, hiệu suất thu hồi 22,8%, giá trị cảm quan cao nhất (18,8 điểm). Sản phẩm canh hến rong biển sấy khô có chất lượng cảm quan tốt, dinh dưỡng cân đối với 13,7% protein, 2,95 mg/mL protein hòa tan, 5,74% lipid khi phối trộn 8,5% bột đạm thủy phân và 8,2% hến sấy. Sau 8 tuần bảo quản ở nhiệt độ thường, sản phẩm vẫn duy trì chất lượng vi sinh và cảm quan tốt.

Đặc điểm sinh trưởng và các hệ số tử vong của loài tôm sắt choán Parapenaeopsis maxillipedo Alcock, 1905 ở vùng biển Kiên Giang

Vũ Việt Hà, Từ Hoàng Nhân*
Tóm tắt | PDF
Đặc điểm sinh trưởng, các hệ số tử vong và hệ số khai thác của loài tôm sắt choán Parapenaeopsis maxillipedo Alcock, 1905 ở vùng biển Kiên Giang được phân tích từ dữ liệu sinh học được thu thập trong khoảng thời gian từ tháng 11/2022 đến tháng 10/2023. Tổng số 1.162 cá thể tôm sắt choán đã được thu thập ngẫu nhiên từ sản lượng khai thác của nghề bẫy lú để phân tích một số chỉ tiêu sinh học, gồm đo chiều dài, cân  khối lượng và xác định giới đực, cái. Kết quả nghiên cứu đã xác định được tôm sắt choán là loài sinh trưởng dị hình âm (b < 3), với tốc độ tăng trưởng chiều dài nhanh hơn so với tăng trưởng khối lượng. Các tham số của phương trình sinh trưởng von Bertalanfy là L∞ = 111,6 mm, K = 1,26/năm, t0 = -0,087 và hệ số sinh trưởng Φ' = 2,19. Các hệ số tử vong của tôm lần lượt là M = 1,48/năm, F= 3,45/năm, Z = 4,92/năm. Hệ số khai thác E = 0,7/năm cho thấy áp lực khai thác của nghề bẫy lú đến quần thể tôm đang ở mức cao.

Xây dựng mô hình giáo dục dựa trên lý thuyết học sâu: Một cách tiếp cận sư phạm đổi mới

Nguyễn Hoàng An Khang*, Won Ho, Đỗ Thanh Nghị, Phạm Nguyên Khang, Phương Hoàng Yến, Bùi Lê Diễm, Trần Trung Tính, Võ Thị Anh Thư
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đề xuất một mô hình giáo dục tích hợp các phương pháp giảng dạy hiện đại như WebQuest, Học qua Giảng dạy (Learning by Teaching - LbT), Xây dựng lớp học tư duy (Building Thinking Classrooms - BTC), và Truy vấn dựa trên khái niệm (Concept-Based Inquiry - CBI). Mô hình kết hợp hiệu quả các công cụ giáo dục (OKMindmap, YouTube), công nghệ giáo dục (ChatGPT, Khai phá dữ liệu học tập - EDM) và truyền thông giáo dục (VideoTeach), hướng tới phát triển toàn diện năng lực 6Cs: phẩm chất, công dân toàn cầu, hợp tác, giao tiếp, sáng tạo và tư duy phản biện. Thông qua tổng quan tài liệu và thiết kế mô hình, kết quả nghiên cứu giúp chứng minh tính khả thi và tiềm năng của mô hình trong việc thúc đẩy đổi mới sư phạm và phát triển năng lực người học trong bối cảnh giáo dục hiện đại.

Đồng tạo trải nghiệm trong du lịch: Một nghiên cứu trắc lượng thư mục với cơ sở dữ liệu Scopus

Trần Tuyên*
Tóm tắt | PDF
Đồng tạo trải nghiệm trong du lịch đã trở thành một chủ đề đang được chú ý khi du khách mong muốn tham gia vào quá trình tạo ra những trải nghiệm tương tác và cá nhân hóa. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các xu hướng công bố về đồng tạo trải nghiệm trong du lịch qua ba yếu tố: thời gian, không gian và các chủ đề chính. Phương pháp nghiên cứu áp dụng là trắc lượng thư mục dựa trên 514 công bố khoa học từ cơ sở dữ liệu Scopus. Kết quả nghiên cứu chỉ ra ba xu hướng quan trọng: (1) Sự gia tăng đáng kể về số lượng nghiên cứu trong những năm gần đây; (2) Các nghiên cứu chủ yếu đến từ các quốc gia phát triển, nơi ngành du lịch đã có sự đổi mới với các mô hình đồng tạo; (3) Các chủ đề nổi bật bao gồm du lịch văn hóa và di sản, điểm đến du lịch, công nghệ và đổi mới, cũng như thị trường du lịch và các bên liên quan. Dựa trên kết quả nghiên cứu, một số hướng nghiên cứu tiềm năng được gợi ý.

Chấn thương của nhân vật Sao trong truyện ngắn và phim điện ảnh Mười Ba Bến Nước

Trần Trọng Đoàn*, Huỳnh Thị Tuyết Ngân, Lê Phạm Quỳnh Giao
Tóm tắt | PDF
Thông qua việc tìm hiểu quan điểm phê bình chấn thương của Cathy Caruth, trường hợp cải biên truyện ngắn Mười ba bến nước thành bộ phim cùng tên đã được tiếp cận từ mô hình phân tích chấn thương cổ điển để làm nổi bật các biểu hiện chấn thương và cách nhân vật Sao phản hồi với chấn thương. Trong bài báo này, chấn thương của nhân vật được tập trung khai thác từ hai đặc điểm then chốt của mô hình cổ điển: sự đình hoãn và sự lặp lại cưỡng bức. Từ đó, sự khác biệt trong cách thể hiện chấn thương cũng đã được làm rõ thông qua ngôn ngữ văn học và các thủ pháp điện ảnh, cho thấy ưu thế của từng phương tiện cũng như sự độc đáo khi so sánh góc nhìn và cách thể hiện chấn thương của tác giả văn học và đạo diễn điện ảnh.

Phân tích hiệu quả kỹ thuật của mô hình sản xuất lúa hữu cơ tại thị xã Cai Lậy, Tiền Giang

Nguyễn Anh Khoa, Huỳnh Trường Huy*
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích hiệu quả kỹ thuật (TE) đối với mô hình sản xuất lúa hữu cơ tại thị xã Cai Lậy, Tiền Giang, dựa trên dữ liệu khảo sát 120 hộ sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2023 – 2024 và phương pháp ước lượng biên ngẫu nhiên (SFA) đã được sử dụng. Kết quả phân tích cho thấy TE trung bình của nhóm hộ sản xuất lúa hữu cơ đạt 0,979, thấp hơn so với hộ sản xuất lúa đối chứng đạt 0,998 với mức ý nghĩa thống kê 5%. Sự chênh lệch này chủ yếu liên quan đến quy trình và giới hạn sử dụng vật tư nông nghiệp trong sản xuất lúa. Bên cạnh đó, kinh nghiệm hạn chế về sản xuất lúa hữu cơ và điều kiện tự nhiên cũng được xem là nguyên nhân ảnh hưởng. Tuy nhiên, hộ sản xuất lúa hữu cơ đạt lợi nhuận ròng cao hơn gần 7 triệu đồng/ha chủ yếu do giá bán lúa được cao hơn. Nhìn chung, sự gia tăng hiệu quả tài chính là nhân tố khẳng định mục tiêu hướng đến sản xuất lúa hữu cơ lâu dài và cần có chính sách khuyến nông kịp thời để đồng hành với nhà sản xuất lúa.

Thái độ đối với chiêu thị và ý định mua của khách hàng Gen Z đối với thương hiệu Katinat Saigon Kafe: Nghiên cứu vai trò trung gian của nhận biết và ham muốn thương hiệu

Nguyễn Minh Cảnh*, Nguyễn Phương Nam, Thái Phước Nghĩa
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích phân tích tác động của thái độ đối với chiêu thị đến ý định mua của khách hàng Gen Z đối với thương hiện Katinat Saigon Kafe tại thành phố Cần Thơ thông qua vai trò trung gian của nhận biết và ham muốn thương hiệu. Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên lý thuyết hành động hợp lý (TRA) và lý thuyết hành vi dự định (TPB). Mô hình cấu trúc tuyến tính là phương pháp phân tích chính của nghiên cứu nhằm kiểm định các giả thuyết. Kết quả phân tích dữ liệu khảo sát 250 khách hàng Gen Z trên địa bàn thành phố Cần Thơ cho thấy thái độ đối với chiêu thị tác động gián tiếp đến ý định mua thông qua ham muốn thương hiệu. Trong khi đó, nhận biết thương hiệu không đóng vai trò trung gian có ý nghĩa thống kê trong mối quan hệ này. Từ các kết quả thu được, một số hàm ý quản trị được đề xuất giúp cải thiện thái độ của khách hàng Gen Z đối với các hoạt động chiêu thị, nhằm thúc đẩy ý định mua thông qua việc gia tăng ham muốn thương hiệu.