Hiện trạng nhiễm ký sinh trùng trên cá bớp (Rachycentron canadum) nuôi lồng ở tỉnh Kiên Giang
Abstract
Tóm tắt
Article Details
Tài liệu tham khảo
KKJKLMDEGFHIBAC
Hình 2: A: Mang cá bớp nhiễm A. ocellatum; B: Ký sinh trùng A. ocellatum giai đoạn trophont (40X); C: Ký sinh trùng Trichodina sp.; D: Dấu hiệu cá bớp nhiễm C. irritans chết hàng loạt; E: Ký sinh trùng C. irritans giai đoạn dinospores trên cá bớp; F: Sán lá Neobenedenia sp. trên cá bớp; G: Neobenedenia sp. (10X); H: Nắp mang cá bớp phồng lên do sán lá Pseudorhabidosynochus sp.; I: Sán lá đơn chủ Pseudorhabidosynochus sp. (40X) và trứng của sán lá mang (mũi tên); J: Giun đầu gai Leptorhynchoides sp. ký sinh trên cá bớp; K, L: Giun tròn Procamalanus sp.; M: Giáp xác Parapetalus sp. ký sinh trên cá bớp (10X)
Qua 4 đợt thu mẫu cá bớp từ mùa khô tháng 3/2014 đến mùa mưa tháng 9/2016 ở tỉnh Kiên Giang, kết quả tỷ lệ nhiễm KST ở cơ quan, vị trí ký sinh khác nhau được trình bày trong Bảng 3.
Nghiên cứu đã tìm được 6 loài ngoại ký sinh: 2 loài A. ocellatum và Pseudorhabdosynochus sp. ký sinh chủ yếu ở mang cá. Ở Bảng 3 và 4, Trichodina sp., C. irritans tìm thấy chủ yếu ở da và mang. Các KST ngoại ký sinh trong nghiên cứu này có thể quan sát được dưới kính hiển vi ở thị trường 10X, ngoại trừ 2 giống loài: Neobenedenia sp. (ký sinh trên da và mắt cá), và Parapetalus sp. (tìm thấy trong xoang miệng, mang) có thể quan sát bằng mắt thường. Sán lá Neobenedenia sp. có cường độ cảm nhiễm cao nhất (3-160 trùng/cá) trên cả cá bớp giống và cá thịt tỉnh Kiên Giang. Ba loài nội ký sinh bao gồm Leptorhynchoides sp., Procamalanus sp. tìm thấy chủ yếu là ở ruột cá và ấu trùng Anisakis sp. lại ký sinh ở xoang bụng, thành ruột. Trong đó, giun đầu gai Leptorhynchoides sp. có tỷ lệ nhiễm cao nhất đến 95% và CĐN (1-14 trùng/cá) (Bảng 3 và 4). Nhìn chung, kết quả nghiên cứu này cho thấy cá bớp ở giai đoạn giống nuôi lồng vùng biển Kiên Giang mẫn cảm nhiều loại ký sinh hơn cá lớn.
Bảng 3: Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng (%) qua 4 đợt thu mẫu cá bớp
Bảng 4: Cường độ nhiễm ký sinh trùng trên cá bớp ở Kiên Giang
Cá bớp là một trong những đối tượng được nuôi phổ biến bằng hình thức lồng nổi (hệ thống mở) ở tỉnh Kiên Giang. Chính vì vậy, việc ngăn chặn các mầm bệnh gặp nhiều khó khăn. Hiện trạng xuất hiện bệnh do sinh trùng ký sinh trên cá bớp đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế của người nuôi. Các KST có mức độ cảm nhiễm cao là: Sán lá đơn chủ (Monogenea); KST đơn bào (Protozoa), giun đầu gai (Acanthocephala); giun tròn (Nematoda) và giáp xác (Crustaceae). Trên thế giới, một số tác giả đã xác định cá bớp nhiễm một số bệnh KST như bệnh do Amylodinium sp., Trichodina sp., Neobenedenia sp. (Kaiser và Holt, 2005; Leaño et al., 2006).
Ký sinh trùng đơn bào Amyloodinium sp. phân bố rộng trên khắp thế giới nhất là vùng nhiệt đới, là tác nhân gây thiệt hại lớn nhất trong nghề nuôi cá biển công nghiệp trên nhiều loài cá biển nước lợ và nước mặn (Noga và Levy, 2006). Ở Kiên Giang đã tìm thấy ký sinh đơn bào A. ocellatum ký sinh trên mang làm cho cá khó hô hấp, tăng tiết dịch nhầy, bơi lờ đờ không định hướng. Cá bệnh nặng bỏ ăn, hở nắp mang, xuất hiện nhiều chấm trắng nhỏ li ti trên mang và bề mặt cơ thể cá (Hình 2.A). Khi kiểm tra bằng kính hiển vi (10-40X) tia mang của cá có nhiều KST A. ocellatum (Hình 2.B) CĐN ở mang nhiều hơn (20-250 trùng/thị trường 10X), đặc biệt ở đảo Phú Quốc với tỉ lệ nhiễm có thể lên đến 70-100% (vào cuối tháng 3/2015). Hầu hết các loài cá biển (hơn 100 loài) có thể mẫn cảm với Amyloodinium sp. (Lawler, 1977). Các tác giả Kaiser và Holt (2005) và Leaño et al. (2008) cũng ghi nhận bệnh do A. ocellatum là tác nhân chính gây chết cá bớp ở giai đoạn giống, có thể gây chết hàng loạt trong vài ngày, nếu phát hiện và điều trị không dịp thời. Ở Việt Nam, có rất ít công trình nghiên cứu công bố về Amyloodinium sp., từ những năm 2005-2006 ở trại giống Viện nghiên cứu Thủy sản I (RIA-1) ghi nhận A. ocellatum ký sinh trên da và mang cá bớp ở giai đoạn cá lứa với cường độ nhiễm rất cao gây ảnh hưởng đến sự hô hấp, dẫn đến cá bơi lờ đờ và cuối cùng gây hao hụt rất cao (Nhu et al., 2011). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào công bố tìm thấy loại ký sinh này trên cá biển nuôi lồng ở Khánh Hòa.
Ngoài ra, nghiên cứu còn ghi nhận sự hiện diện của trùng mặt trời Trichodina sp. với cường độ nhiễm thấp, 3-30/ trùng/thị trường 10X (Hình 2.C) và tỷ lệ nhiễm 9,2 – 53,3%, xuất hiện cao điểm vào mùa mưa (tháng 8-9dl), phổ biến ở giai đoạn cá bớp giống. Kết quả này cũng phù hợp với ghi nhận của FAO (2007), trùng bánh xe Trichodina sp. gây bệnh trên cá bớp trong giai đoạn giống, tìm thấy trên da và mang cá bớp gây cho cá bơi lờ đờ, bỏ ăn, tạo cơ hội nhiễm trùng thứ cấp khác. Ngoài ra, loài Trichodina sp. được tìm thấy ký sinh trên da cá chẽm; Leong và Wong (1986) công bố bắt gặp Trichodina sp. trên loài cá nuôi này ở Malaysia với tỷ lệ 33,3%.
Loài ký sinh Cryptocaryon sp. thường xuất hiện trên cá bớp giống và lứa ở Hòn Nghệ và Tiên Hải, cao điểm vào các tháng có nhiệt độ thấp (tháng 1-2dl, nhiệt độ 26-28,3°C) nhưng không tìm thấy vào mùa mưa. Chúng ký sinh nhiều trên da tạo nên những đốm trắng hoặc đỏ hồng, trên vây và mang. Các mẫu cá bệnh thu được cũng cho thấy có sự xuất hiện của chúng, TLN Cryptocaryon sp. lên đến 90,3% và CĐN 2-142 trùng/thị trường 10X có thể gây chết hàng loạt (Hình 2.E&F)… Cá bớp nhiễm C. irritans xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản, có khả năng gây nhiễm trên 45 loài cá biển ở nước này (Sikama, 1937). Tương tự như Amyloodinium sp., trùng lông hay trùng quả dưa nước mặn “Marine Ich” Cryptocaryon sp. thuộc lớp tiêm mao trùng (Ciliata), đây là 1 trong 2 giống loài ký sinh nguy hiểm phổ biến nhất trên cá biển. Ở Florida, C. irritans được tìm thấy trên cá bớp giai đoạn giống (Bunkley -Williams và Williams, 2006) là tác nhân gây bệnh đốm trắng “Marine white spot” ở cá nước mặn giống như trùng quả dưa nước ngọt (Ichthyophthirius multifiliis). Chu kỳ sống của trùng lông có hai giai đoạn: giai đoạn dinh dưỡng ký sinh trên cá biển và giai đoạn bào nang (giai đoạn sống tự do) bám vào rong tảo sống trên đáy biển. Theo Yoshinaga (2001) và Dickerson (2006); cho biết loại ký sinh này phát triển thích hợp ở nhiệt độ 23-30°C. Tuy nhiên, gần đây có thông tin C. irritans có thể phát triển ở nhiệt độ 12-14°C gây bệnh trên cá bơn (Paralichthys olivaceus) nuôi ở Hàn Quốc. Ngoài ra, theo Đỗ Thị Hòa và ctv. (2008) đã tìm thấy C. irritans ký sinh trên cá mú, cá chẽm, cá hồng, cá bớp nuôi lồng ở Khánh Hòa.
Nhóm KST nhiễm trên cá bớp được tìm thấy phổ biến nhất là sán lá đơn chủ (Monogenea). Nghiên cứu này tìm thấy hai loài sán lá đơn chủ Neobenedenia sp. và Pseudorhabidosynochus sp. Trong đó, sán lá Neobenedenia sp. xuất hiện nhiều trên da, ký sinh có kích thước lớn có thể quan sát bằng mắt thường, người nuôi gọi cá bị “đốm trắng” hoặc “bị bọ”, người nuôi cá biển ở Nha Trang còn gọi là “bệnh mè cá” (Đỗ Thị Hòa và ctv., 2008). Sán lá đơn chủ Neobenedenia sp. ký sinh khắp bề mặt cơ thể với CĐN 160 trùng/con cá và tập trung nhiều ở mắt (Hình 2.G&H) và trong giác mạc của cá với CĐN 3-15 trùng/ mắt cá) xuất hiện và cao điểm lúc giao mùa, hiện diện ở tất cả mẫu thu từ giai đoạn cá giống đến cá thương phẩm. Trong khi đó, các mẫu cá khỏe thường không hoặc nhiễm với tỷ lệ và cường độ thấp (5-18% và 0-4 trùng/lá mang). Nghiên cứu của Perkins et al. (2009) đã xác định có khoảng 180 loài sán lá thuộc họ Capsalidae có kích thước lớn, ký sinh chủ yếu trên bề mặt các loài cá biển như: da, vây, mang và chúng có cơ quan bám phát triển. Theo Đỗ Thị Hòa và ctv. (2008) “bệnh mè cá” do sán lá đơn chủ trên cá biển nuôi ở Khánh Hòa có tỷ lệ và cường độ nhiễm cao có thể đến (100%) bao gồm bốn loài sán lá đơn chủ: N. melleni, N. girellae, Benedenia epinepheli và Benedenia sp. đã được xác định gây bệnh sán lá đơn chủ ký sinh trên cá biển nuôi ở Khánh Hòa. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây Lê Thanh Cần và Đặng Thị Hoàng Oanh (2015) đã kiểm tra 4 lồng cá bớp nuôi thâm canh tại Khánh Hòa, kết quả không phát hiện được giống Neobenedenia sp. trên mắt cá bệnh mà chỉ thấy chúng có nhiều ở hốc mang.
Theo Ogawa et al., (2006) cho rằng sán lá Neobenedenia sp. thường tập trung ký sinh ở vùng lưng đầu, đặc biệt là ký sinh ở vùng mắt trên cá bớp (Rachycentron canadum) nuôi ở Đài Loan. Kết quả nghiên cứu các mẫu bị bệnh do sán lá cho thấy CĐN cao của sán lá đơn chủ (26-89 trùng/con cá) ở bề mặt cơ thể cá bệnh. Theo nghiên cứu của Kaneko et al., 1988 cho thấy khi mắt nhiễm lá Neobenedenia sp. nặng, mắt cá bị ảnh hưởng và biến đổi về bệnh học qua các giai đoạn như sau: (1) đục giác mạc; (2) lở loét giác mạc; (3) mắt sưng phồng; (4) nổ mắt; (5) gây nội thương cấu trúc mắt; (6) để lại vết xẹo và mù lòa. Chính vì thế, ngoài khả năng gây chết trực tiếp nếu mức độ cảm nhiễm cao, chúng còn gián tiếp tạo điều kiện cho các bệnh khác xuất hiện như vi khuẩn, virus và nấm xâm nhập và gây bệnh mù mắt, xuất huyết và lở loét, là nguyên nhân làm giảm năng suất nuôi cá biển (Ogawa, 2005; Whittington, 2005). Ở Đài Loan, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng nhóm sán lá Neobenedenia sp. đã mở đường cho các loài vi khuẩn Vibrio và Photobacterium… xâm nhập vào vết thương ở vùng đầu và mắt cá gây bộc phát bệnh Vibriosis và Photobacteriosis trên cá bớp nuôi bè Lopez et al. (2002).
Ngoài ra, sán lá đơn chủ Pseudorhabidosynochus sp. được tìm thấy trên mang cá bớp với CĐN ở cá giống 3-37 trùng/thị trường 10X, cá thương phẩm CĐN cao khoảng 92 trùng/thị trường 10X và tỷ lệ nhiễm 30-76,3% cá bệnh thường hoạt động yếu, bỏ ăn, mang nhợt nhạt. Khi bơi nắp mang phồng lên (Hình 2.I&J), mang tiết nhiều dịch nhầy (mủ mang) trường hợp bệnh nặng có thể gây chết cá rải rác hoặc hàng loạt ở giai đoạn cá con (<20 cm). Theo Đỗ Thị Hòa và Phan Van Út (2007), Võ Thế Dũng và ctv. (2010) đã tìm thấy Pseudorhabidosynochus sp. ký sinh ở mang trên cá mú đen, cá mú mè, cá mú tiêu và cá mú mỡ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng đặc điểm chung của sán lá đơn chủ chỉ ký sinh trên một ký chủ nhất định, tuy nhiên cũng có vài ký chủ phụ ở mức độ khác nhau. Từ nghiên cứu này có thể cho rằng cá bớp là một ký chủ phụ của sán lá Pseudorhabidosynochus sp. Hơn nữa, mật độ cá bớp nuôi trong lồng khá cao là điều kiện thuận lợi cho sán lá đơn chủ phát triển, vì chúng có thể lây lan trực tiếp từ cá này sang cá khác một cách dễ dàng, vòng đời của sán đơn chủ không cần ký chủ trung gian, nên cá thể thành thục đẻ trứng nở ra con là có thể bám ngay vào các ký chủ để sinh trưởng và phát triển. Thực tế, ở vùng biển tỉnh Kiên Giang, người nuôi thường thả nuôi cá mú và cá bớp chung hoặc đặt lồng của 2 loại cá này cạnh nhau dẫn đến việc lây nhiễm KST là điều khó tránh khỏi.
Trong nghiên cứu này, trong nhóm giun sán nội ký sinh đã tìm thấy 1 giống giun đầu gai Leptorhynchoides sp. (Acanthocephala) và 2 giống giun tròn: Procamalanus sp. và Anisakis sp. dạng ấu trùng. Trong đó, giun đầu gai Leptorhynchoides sp. được tìm thấy ở hầu hết các mẫu cá bớp, nhiều ở ruột cá bớp, xuất hiện quanh năm. TLN giun đầu gai của cá bớp rất cao (85,7 -100 %) và CĐN 1-15 trùng/con cá.
Trong khi, giun tròn Procamalanus sp. ký sinh ở ruột với mức độ nhiễm không cao. Tỷ lệ nhiễm tương ứng mùa nắng và mưa là (33,3 - 37,5%); CĐN là 1-5 trùng/ruột cá. Khalil (1971) báo cáo có khoảng 40 loài giun tròn trưởng thành, thuộc 9 họ ký sinh trên cá ở Châu Phi. Nhóm ký sinh có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế do làm tăng hệ số chuyển đổi thức ăn có thể gây nên hiện tượng xuất huyết hay tạo nên các nang ở trong cơ làm giảm giá trị thương phẩm cá phi-lê (Bruce và Cannon, 1989).
Một số mẫu cá bớp đã phát hiện ấu trùng giun tròn Anisakis trong xoang bụng (bám dọc bên ngoài dạ dày và thành ruột cá bớp), chủ yếu ở giai đoạn cá thương phẩm với cường độ và TLN thấp lần lượt là 1-5 trùng/cơ thể, 2-8,3%, không tìm thấy ấu trùng Anisakis nhiễm trên cơ cá bớp. Sự hiện diện của ấu trùng Anisakis, sống như KST trong các mô cơ và nội tạng ở nhiều loài cá biển và nhuyễn thể chân đầu có thể ở ấu trùng giai đoạn III và IV. Nhiều nghiên cứu cho rằng Anisakidosis là một dạng nhiễm trùng đường tiêu hóa ảnh hưởng đến những người đã ăn cá bị nhiễm ấu trùng Anisakis khi còn sống (đặc biệt là món sushi và sashimi), không đủ chín như cá ngâm dấm, ướp muối, hun khói lạnh, sấy khô… (Schmidt và Roberts, 2000; Shih et al., 2010; Choi et al., 2011). Chính vì thế, rất nhiều công trình khoa học trên thế giới (ở Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Na-uy, Tây Ban Nha và các nước khác ở Tây Âu…) đã tập trung nghiên cứu về các đặc điểm sinh học và dịch tể học của ký sinh này. Điển hình, gần đây nhiều nhà khoa học ở Đài Loan đã kiểm tra ấu trùng Anisakis simplex trên 40 loài cá biển và 3 loài nhuyễn thể chân đầu (mực) (gồm 2.537 mẫu cá và mực) kết quả ghi nhận TLN chung ấu trùng A. simplex là 34,3%, một số mẫu có TLN thấp nhất là 0,8 – 8,9% và CĐN là 54,2 - 117,7 trùng/cơ thể (Choi et al., 2011). Năm 2010, nhóm nghiên cứu của nhà khoa học Shih đã tìm thấy khi cá bớp nuôi lồng ở Đài Loan cho ăn cá tạp tươi là nguồn lây nhiễm ấu trùng A. simplex cho cá bớp nuôi với TLN 25-92,8% và CĐN 16-45 trùng/cơ thể (Shih et al., 2010). Ở Việt Nam, Võ Thế Dũng và ctv. (2005) công bố công trình về KST trên cá mú (Epinephelus), trong đó loài Anisakis sp. đã được thông báo tìm thấy ở Khánh Hòa. Sau đó năm 2006, Athur và Te đã phát hiện 2 giống giun tròn Anisakis sp. và Philometroides sp. ở cá bớp hoang dã (Arthur và Te, 2006). Từ kết quả trên cho thấy việc kiểm soát con giống sạch bệnh và tích cực chuyển từ thức ăn cá tạp sang thức ăn viên chất lượng nuôi cá biển là rất cần thiết để tránh lây nhiễm ấu trùng này cho cá biển nuôi nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Rận cá Parapetalus sp. được tìm thấy ở xoang mang và miệng trên các mẫu cá bớp, xuất hiện quanh năm, nhưng cao điểm vào mùa mưa. TLN 23,8 - 25,0 (%) CĐN tương ứng 4,3-5,0 trùng/con cá. Theo McLean et al. (2008), rận cá ký sinh trên cá bớp nếu không được điều trị kịp thời sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế đối với nghề nuôi cá biển; và có khoảng 10 loài đã được báo cáo là ký sinh trên cá bớp. Chúng có các móc dùng để bám vào cơ thể ký chủ. Một số loài có khả năng di chuyển tự do trên bề mặt ký chủ và tạo nên các điểm hoại tử tại các vị trí ký sinh trên da. Mức độ thiệt hại kinh tế do các tác động gián tiếp như giảm tốc độ tăng trưởng, tác động tiêu cực thông qua tiêu tốn chi phí điều trị hơn là làm cho cá chết. Parapetalus occidentalis được tìm thấy trên cá bớp nuôi ở Đài Loan (Ho và Lin, 2001). Bên cạnh đó, loài giáp xác Parapetalus occidentalis (Leaño et al., 2008) hay còn gọi là rận cá Parapetalus sp. cũng được phát hiện ở cá bớp bệnh (Đỗ Thị Hòa và ctv., 2008). Cá bớp nhiễm nặng các nhóm ngoại ký sinh có thể bị gây tổn thương nghiêm trọng trên bề mặt da và mang dẫn đến tử vong hoặc nhiễm trùng do tác nhân cơ hội (McLean et al., 2008). Từ kết quả trên nhận thấy, cá bớp ở giai đoạn giống và lứa rất mẫn cảm với các mầm bệnh, đặc biệt là KST. Từ thực tế và nghiên cứu cho thấy do nuôi cá bớp lồng trên biển là môi trường mở nên cá thường nhiễm kép hoặc bội nhiễm tổng hợp dẫn đến khi bộc phát bệnh có biểu hiện kết hợp nhiều dấu hiệu lâm sàng khác nhau.
Nhìn chung, trong các giống loài KST trên cá bớp, nghiên cứu này tìm thấy nhóm sán lá đơn chủ (Neobenedenia sp.) và ký sinh trên bề mặt cơ thể và trên mang cá rất phổ biến và gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho cá biển nuôi tại Kiên Giang. Hiện nay, đa số người nuôi cá biển vùng biển tỉnh Kiên Giang chẩn đoán bệnh theo cảm tính, phòng và trị bệnh theo kinh nghiệm nên thường không mang lại hiệu quả. Theo thông tin từ các hộ nuôi cá bớp lồng tỉnh Kiên Giang, hầu hết người nuôi còn nhiều hạn chế trong việc nhận biết các dấu hiệu bệnh lý để phát hiện bệnh do KST. Một số hộ còn sử dụng kháng sinh và hóa chất phối hợp nhiều loại thuốc tùy tiện để tắm cho cá nhiễm KST. Quả thật, nhiều loại kháng sinh như oxytetracylin, florfenicol, ampicillin, erythromycin hoặc sulfamonomethoxin không có tác dụng điều trị bệnh do KST (Ohno et al., 2009). Thực tế cho thấy đối với sán đơn chủ, các biện pháp áp dụng không hiệu quả hoặc có hiệu quả ngay tại thời điểm xử lý, tức là chỉ có thể diệt được khi sán lá đang ký sinh trên cá, trong khi mối nguy về giai đoạn ấu trùng trong môi trường nước thì chưa xử lý được. Do đó, nguy cơ tái nhiễm cứ lặp đi lặp lại liên tục dẫn đến gây khó khăn cho người nuôi cá khi phòng trị bệnh này. Hơn nữa, mùa khô ở Đồng bằng sông Cửu Long từ giữa tháng 11 đến tháng 5 là mùa gió Đông-Bắc nên nhiệt độ nước biến động lớn (27,0-31,1°C), Kiên Giang có biển ven bờ lài và nông (2-3m) so với chuẩn phù hợp độ sâu nơi đặt lồng/bè là 4-10 m, nước chảy chậm, oxy hòa biến động giữa các tháng trong mùa khô khá cao (4,00-9,61 mg/L), nhất là ở các đảo nuôi cá biển như đảo Phú Quốc (Trương Hoàng Minh và ctv., 2011) là điều kiện thuận lợi cho KST đơn bào (A. ocellatum và C. irritans ) phát triển mạnh thành dịch gây chết cá bớp hàng loạt vào mùa khô 2015 ở 2 đảo Phú Quốc và Hòn Nghệ. Vào mùa mưa (khoảng 15/5 đến 15/11) là mùa gió Tây-Nam. Khi chuyển mùa, người dân nuôi cá lồng ở Kiên Giang phải dời lồng để tránh sóng to, gió lớn; rất dễ làm cá nuôi bị stress và xây xát. Mặt khác, vào mùa này, lượng dòng chảy tăng lên đáng kể tạo điều kiện cho một số ký sinh trùng phát triển và phát tán nhanh hơn, nhất là KST ngoại ký sinh như sán lá đơn chủ Neobenedenia sp., Pseudorhabdosynochus sp. và giáp xác Parapetalus sp. Riêng đối với mức cảm nhiễm của KST nội ký sinh như Leptorhynchoides sp., Procamalanus sp. và Anisakis sp. không thấy biến động lớn theo môi trường và mùa vụ. Để quản lý dịch bệnh, theo nghiên cứu của Brazenor và Hutson (2015) vào mùa khô nhiệt độ (27-31°C) rất thích hợp để sán lá Neobenedenia sp. hoàn thành nhanh chu kỳ sống, do đó nên tắm cá diệt sán lá thường xuyên hơn. Tuy nhiên, cần cảnh báo vào các tháng có nhiệt độ nước thấp hơn (21-26°C) thì gia tăng sự mẫn cảm của cá nuôi đối với loại ký sinh này. Trong khi 2 loại KST đơn bào A. ocellatum và C. irritans có chu kỳ sống ký sinh qua 4 giai đoạn và hóa chất chỉ diệt được ký sinh trùng ở giai đoạn bơi tự do (giai đoạn trophont/dinospores) nên điều trị phải lặp lại nhiều lần và có thể duy trì thời gian điều trị 3-4 tuần (Noga và Levy, 2006).
Đã tìm thấy 9 loài ký sinh trùng, gồm 6 loài ngoại ký sinh là: Amyloodinium ocellatum, Cryptocaryon irritans, Trichodina sp., Neobenedenia sp.., Pseudorhabdosynochus sp.và Parapetalus sp. và 3 loài nội ký sinh là: Leptorhynchoides sp., Procamalanus sp. và Anisakis sp. trên cá bớp nuôi lồng ở tỉnh Kiên Giang.
Cá bớp ở giai đoạn giống nuôi lồng vùng biển Kiên Giang mẫn cảm nhiều loại ký sinh hơn cá thương phẩm. Sán lá đơn chủ Neobenedenia sp. có cường độ cảm nhiễm cao nhất (21-150 trùng/cá) và tỷ lệ nhiễm 62,5% trên cả cá bớp giống và cá thương phẩm nuôi lồng ở 4 đảo: Phú Quốc, Tiên Hải, Hòn Nghệ và Nam Du tỉnh Kiên Giang.
KST đơn bào A. ocellatum và C. irritans là loại ký sinh gây bệnh quan trọng nhất làm cá chết rất nhanh và hàng loạt vào mùa khô ở giai đoạn cá bớp giống và lứa ở 2 đảo Phú Quốc và Hòn Nghệ.
Cần nghiên cứu các điều kiện sinh thái ảnh hưởng đến các giai đoạn phát triển của ấu trùng và khả năng bám của chúng lên ký chủ là cơ sở khoa học chủ động kiểm soát và phòng trị bệnh ký sinh trùng cho cá biển nuôi lồng.
Tăng cường quản lý chất lượng con giống thông qua hệ thống kiểm dịch Thú y Thủy sản. Đảm bảo thức ăn viên phù hợp nuôi cá biển thay cho thức ăn cá tạp để hạn chế phát tán mầm bệnh.
LỜI CẢM TẠ
Nguồn kinh phí thực hiện nghiên cứu do Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang tài trợ. Nhóm tác giả chân thành cám ơn em Phạm Phước Thuận, Lương Hoàng Thức ngành Bệnh học Thủy sản – Khóa 37, học viên cao học Đặng Chí Kiệm ngành Nuôi trồng Thủy sản – Khóa 19 đã cùng tham gia thực hiện đề tài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Arthur, J.R. and Bui Quang Te, 2006. Checklist of the parasites of fishes of Viet Nam, FAO Fisheries Technical Paper, (369/2). Rome, Italy, p. 133.
Brazenor, A.K. and Hutson K.S., 2015. Effects of temperature and salinity on the life cycle of Neobenedenia sp. (Monogenea: Capsalidae) infecting farmed barramundi (Lates calcarifer). Parasitology Research. 114(5): 1875-1886.
Bruce, N.L. and Cannon L.R.G., 1989. Hysterothylacium, Iheringascaris and Maricostula new genus, nematodes (Ascaridoidea) from Australian pelagic marine fishes. Journal of Natural History. 23(6): 1397-1441.
Bunkley-Williams, L., Jr. Williams E.H. and Bashirullah A.K.M., 2006. Isopods (Isopoda: Aegidae, Cymothoidae, Leiognathidae) associated with Venezuelan marine fishes (Elasmobranchii, Actinopterygii). Revista Biologia Tropical. 54(3): 175-188.
Choi, S.H. , Kim, J., Jo, J.O., Cho, M.K., Yu, H.S, Cha, H.J., Ock, M.S., 2011. Anisakis simplex larvae: Infection status in marine fish and cephalopods purchased from the cooperative fish market in Busan, Korea. The Korean Journal of Parasitology. 49(1): 39-44.
Dickerson, H.W., 2006. Ichthyophthirius multifiliis and Cryptocaryon irritans (phylum Ciliophora). In: Woo, P.T.K. (ed.) Fish Diseases and Disorders. Volume 1. Protozoan and Metazoan Infections, 2nd edn. CABI Publishing, Wallingford, Oxon, UK.
Do Thi Hoa and Phan Van Ut., 2007. Monogenean disease in cultured grouper (Epinephelus spp.) and snapper (Lutjanus argentimaculatus) in Khanh Hoa province, Vietnam. Aquaculture Asia. 12(4): 40-42.
Đỗ Thị Hòa, Trần Vỹ Hích, Phan Văn Út, Nguyễn Thị Thùy Giang, Nguyễn Thị Nguyệt Huệ, 2008. Những Bệnh thường gặp trên cá biển nuôi tại Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học - Công nghệ. 02/2008: 16-24.
FAO, 2007. Cultured aquatic species information program: Rachycentron canadum. http://www.fao.org/fi/website/FIRetrieveAction.do?dom=culturedspecies&xml= Rachycentron_canadum.xml.
FAO, 2012. Rachycentron canadum (Linnaeus, 1766): http://www.fao.org/fishery/culturedspecies/Rachycentron_canadum/en Access on 30/4/2015.
Hà Ký và Bùi Quang Tề, 2007. Ký sinh trùng cá nước ngọt Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội. 360 trang.
Ho, J. S. and Lin, C. L., 2001. Parapetalus occidentalis Wilson (Copepoda, Caligidae) parasitic on both wild and farmed cobia (Rachycentron canadum) in Taiwan. Journal of The Fisheries Society of Taiwan. 28(4): 305-316.
Kaiser, J. B and Holt, G. J., 2005. Species profile cobia. SRAC publication No. 7202.
Kaneko, J.J., Yamada, R., Brock, J.A. and Nakamura, R.M., 1988. Infection of tilapia, Oreochromis mossambicus (Trewavas), by a marine monogenean, Neobenedenia melleni (MacCallum, 1927) Yamaguti, 1963 in Kaneohe Bay, Hawaii, USA, and its treatment. Journal of Fish Diseases. 11(4): 295-300.
Khalil, L.F., 1971. Check list of the helminth parasites of African freshwater fishes. Commonwealth Institute of Helminthology, St Albans. Technical Communication No. 42
Lawler, A.R., 1977. Dinoflagellate (Amyloodinium) infestation of pompano. In: Sindermann, C.J. (ed.) Disease Diagnosis and Control in North American Marine Aquaculture. Elsevier, Amsterdam, 257-264.
Lê Thanh Cần và Đặng Thị Hoàng Oanh, 2015. Một số đặc điểm bệnh học trên cá bớp (Rachycentron canadum Linaeus, 1766) nuôi thâm canh tại Nha Trang. Tạp chí khoa học, Đại học Cần Thơ. 38: 53-60.
Leaño, E.M., Ku, C.C. and I.C. Liao., 2008. Diseases of cultured cobia (Rachycentron canadum). The Seventh Symposium on Diseases in Asian Aquaculture, 22-26.
Leong, T.S., 1997. Control of parasites in cultured marine finfishes in Southeast Asia – an overview. International Journal for Parasitology: 27(10): 1177-1184.
Leong, T.S. and S.Y. Wong., 1986. Parasite fauna of seabass, Lates calcarifer Bloch, from Thailand and from floating cage culture in Penang, Malaysia. In: J.L. Maclean, L.B. Dizon and L.V. HosiUos (eds.). The First Asian Fisheries Forum, Manila, pp. 251–254.
Lom, J. and Dyková I., 1992. Protozoan Parasites of Fishes, Volume 26 (Developments in Aquaculture and Fisheries Science) 1st Edition.Elsevier, Amsterdam, 315pp.
Lopez, C., P.R. Rajan, J.H.Y. Lin, T.Y. Kuo and H. L. Wang, 2002. Disease outbreak in seafarmed cobia (Rachycentron canadum) associated with Vibrio spp., Photobacterium damselae spp. Piscicida, monogenean and myxosporean parasites. Bulletin of the European Association of Fish Pathologists. 22(3): 206-211.
Margollis, L.G.W., Holmes, J.C., Kuris, A.M. and G.A. Schad, 1982. The use of ecological term in parasitology (Report of an ad hoc committee of the American Society of Parasitologists). Journal of Parasitology. 68(1): 131-133.
McLean, E., Salze, G. and Craig, S.R., 2008. Parasites, diseases and deformities of cobia. Ribarstvo. 66(1): 1-16.
Nhu, V.C., Nguyen, Q.H., Le, T.L., Tran, M.T., Sorgeloos, P., Dierckens, K., Reinertsen, H., Kjorsvik, E. and Svennevig, N., 2011. Cobia Rachycentron canadum aquaculture in Vietnam: recent developments and prospects. Aquaculture. 315(1-2), 20-25
Noga, E.J. and Levy M.G., 2006. Phylum Dinoflagellata. In: Woo, P.T.K. (ed.) Fish Diseases and Disorders, Volume 1: Protozoan and Metazoan Infections, 2nd Williams and Bunkley-Williams, 1994.
Noga, J. E (Editor)., 2010. Fish Disease: Diagnosis and Treatment, Second Edition). John Wiley & Sons, USA. 538pp.
Ogawa, K., 2005. Effects in finfish culture. In: Rohde, K. (ed.) Marine Parasitology. CSIRO Publishing, Melbourne, Australia, pp. 378-391.
Ogawa, K., Miyamoto, J., Wang, H.-C., Lo, C.-F. and Kou, G.-H., 2006. Neobenedenia girellae (Monogenea) infection of cultured cobia Rachycentron canadum in Taiwan. Fish Pathology. 41(2): 51-56.
Perkins E.M., Donnellan S.C., Bertozzi T., Chisholm L.A., Whittington I.D., 2009. Looks can deceive: molecular phylogeny of flatworm ectoparasites (Monogenea: Capsalidae) does not reflect current morphological classification. Molecular Phylogenetics & Evolution: 52 (3), 705-714.
Phan Thị Vân, Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Hằng, 2004. Bệnh ký sinh trùng trên cá song, cá bớp nuôi tại Quảng Ninh và Hải Phòng. Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường và Dịch bệnh, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, Bắc Ninh.
Ruckert, S., Palm, H.W. and Klimpel, S., 2008. Parasite fauna of seabass (Lates calcarifer) under mariculture conditions in Lampung Bay, Indonesia. Journal of Applied Ichthyology. 24(3): 321-327.
Schmidt, G.D. and Roberts L.S., 2000. Nematodes: Ascaridida, intestinal large roundworms. In: Schmidt, G.D., Roberts, L.S. (Eds.), Foundations of Parasitology, 6th ed. McGraw-Hill, Singapore, pp. 427-428.
Shih, H.H., Ku, C.C., Wang, C.S., 2010. Anisakis simplex (Nematoda: Anisakidae) third-stage larval infections of marine cage cultured cobia, Rachycentron canadum (Linnaeus,1766) in Taiwan. Veterinary Parasitology. 171(3-4): 277-285.
Shinn, A.P., Pratoomyot, J., Bron, J. E., Paladini, G., Brooker, E. E. and Brookere, A. J., 2015. Economic costs of protistan and metazoan parasites to global mariculture. Parasitology. 142(1): 196-270
Sikama, Y., 1937. Preliminary report on white spot disease in marine fishes. Suisan Gakukai Ho. 7: 149-160.
Trương Hoàng Minh, Trần Ngô Minh Toàn, Trần Hoàng Tuân và Nguyễn Thị Hồng Điệp, 2011. Hiện trạng môi trường - kỹ thuật và tài chính của nghề nuôi cá bớp (Rachycentron canadum) trên lồng ở đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Tạp chí khoa học, Đại học Cần Thơ. Số 26b: 246-254
Võ Thế Dũng, 2010. Động vật ký sinh ở cá mú thuộc giống Epinephelus. Luận án tiến sĩ Sinh học. Thư viện Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 184 trang.
Võ Thế Dũng, Glenn AllcBristow, Nguyễn Hữu Dũng, Võ Thị Dung và Nguyễn Thanh Thùy, 2005. Thành phần ký sinh trùng ở một số loài cá mú thuộc giống Epinephelus ở khu vực Khánh Hòa, Nha Trang. Tạp Chí Khoa học Công Nghệ biển, Phụ chương 4 (T.5)/2005: 247-254.
Whittington, I.D., 2005. Monogenea Monopisthocotylea (ectoparasitic flukes). In: Rohde, K. (ed.) Marine Parasitology. CSIRO Publishing, Melbourne, Australia, pp. 63-72.
Woo, P.T.K., 1999. Fish diseases and disorders. Volume 1. Protozo and Metazoan Infection. Department of zoology, University of Guelph, Canada. 808pp.
Yoshinaga, T, Kamaishi, T., Segawa, I., Yamano, K., Ikeda, H. and Sorimachi, M., 2001. Anemia caused by challenges with the monogenean Neoheterobothrium hirame in the Japanese flounder. Fish Pathology. 36(1): 13-20.