Phạm Thị Thu Hồng * Nguyễn Thanh Phương

* Tác giả liên hệ (phamhong130762@yahoo.com.vn)

Abstract

Applying mixed feeding schedule for striped catfish (Pangasianodon hypophthalmus) grow-out ponds were conducted from June 2010 to January 2012 in Vung Liem and Mang Thit districts, Vinh Long province. The first study was conducted in 28 weeks with three mixed feeding schedules including (1) daily satiation feeding (control); (2) satiation feeding for 3 days and starvation for 1 days (3:1); and (3) satiation feeding for 7 days and starvation for 2 days (7:2). Each feeding schedule was applied in two ponds. The growth rate and feed conversion ratio of fish fed 7 days and starved 2 days were the best. The second study was the application of the satiation feeding for 7 days and starvation for 2 days (7:2) in 3 grow-out ponds and daily satiation feeding in 2 ponds (control). The results of mixed feeding schedule showed reducing production cost, improving fish growth and production and reducing feed conversion ratio. Therefore, mixed feeding schedule (7:2) is recommended to apply in grow-out culture of striped catfish.
Keywords: Striped catfish, mixed feeding schedule, production cost

Tóm tắt

Nghiên cứu phương pháp cho ăn gián đoạn trong nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thương phẩm được thực hiện từ tháng 6/2010 đến tháng 01/2012 tại huyện Vũng Liêm và Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Thí nghiệm thứ nhất được thực hiện trong thời gian 28 tuần với 3 nghiệm thức và 2 lần lặp lại gồm (1) cho cá ăn theo nhu cầu 2 lần/ngày (đối chứng); (2) cho cá ăn theo nhu cầu 3 ngày ngừng 1 ngày (3:1); (3) cho cá ăn theo nhu cầu 7 ngày ngừng 2 ngày (7:2). Tăng trưởng và hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) của cá ở nghiệm thức (7:2) cho kết quả tốt nhất. Thí nghiệm thứ 2 ứng dụng kết quả cho ăn theo nhu cầu 7 ngày ngừng 2 ngày (7:2) ở 3 ao và cho cá ăn theo nhu cầu hằng ngày ở 2 ao (đối chứng). Kết quả cho thấy cho cá ăn 7 ngày ngừng 2 ngày giảm chi phí sản xuất, cải thiện tăng trưởng và năng suất, giảm hệ số thức ăn. Kết quả nghiên cứu cần được phổ biến áp dụng rộng rãi trong nuôi cá tra thâm canh.
Từ khóa: Cá tra, ăn gián đoạn, chi phí sản xuất, nuôi thâm canh

Article Details

Tài liệu tham khảo

Tỷ lệ sống của cá ở các ao nuôi sau 28-30 tuần nuôi dao động từ 66,2 đến 74,2%. Tỷ lệ sống đạt cao nhất ở các ao cho ăn 7 ngày và ngừng 2 ngày là 74,2%; các ao cho ăn 3 ngày và ngừng 1 ngày và cho ăn liên tục gần bằng nhau theo thứ tự là 68,0% và 66,2%. Tuy nhiên, sự khác nhau về tỉ lệ sống giữa các ao cho ăn gián đoạn khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả cho thấy cho ăn gián đoạn không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá nuôi trong ao thâm canh.

Bảng 2: Khối lượng ban đầu (Wđ), khối lượng cuối (Wc), tăng trọng (WG), tăng trưởng tuyệt đối (DWG) của cá sau 28-30 tuần nuôi

Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các số liệu cùng nằm trong một cột có mang chữ cái giống nhau thì sai khác không có ý nghĩa p>0,05

Bảng 2cho thấy khối lượng ban đầu của cá giữa các nghiệm thức khác không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Sau 28-30 tuần nuôi thì khối lượng cá thu hoạch và tăng trọng của cá ở nghiệm thức cho ăn 7 ngày và ngưng 2 ngày cao nhất và khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức cho ăn hằng ngày (p<0,05). Tuy nhiên, tăng trọng tuyệt đối của cá giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả này cho thấy ở cá tra khi áp dụng phương pháp cho ăn gián đoạn tăng trưởng tốt hơn cá được cho ăn hằng ngày và như vậy cá tra có khả năng cải thiện tăng trưởng sau thời gian đói; kết quả nghiên cứu này tương tự như kết quả nghiên cứu của Dương Hải Toàn vàctv. (2010) khi nuôi cá tra giống trong bể, áp dụng phương pháp cho cá tra ăn 7 ngày: bỏ đói 3 ngày cho tăng trưởng tốt hơn cá được cho ăn hằng ngày.Cải thiện tăng trưởng sau thời gian đói liên quan tới hiệu quả hấp thụ, sử dụng vật chất dinh dưỡng và chuyển đổi thức ăn qua độ tiêu hóa dưỡng chất tốt hơn. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh cá bị bỏ đói hoặc giảm thức ăn ăn vào có thể dẫn đến việc gia tăng các hoạt tính của men tiêu hóa trong các phần khác nhau của đường tiêu hóa(Harpaz et al., 2005; Krogdahl and Bakke-McKellep, 2005). Bên cạnh, khi cá bị bỏ đói trong thời gian ngắn làm giảm hoạt tính các men tiêu hóa, và khi cho ăn trở lại thì kích thích mạnh các hoạt tính của các men trong ống tiêu hóa từ đó phân giải chất dinh dưỡng như đạm hiệu quả (Chan et al., 2008) hay trong điều kiện nhịn đói lâu ngày cũng ảnh hưởng đến sự tiết nhiều các men tiêu hóa (Lê Thanh Hùng, 2008) và khi cho cá tra ăn gián đoạn thì hoạt tính men tiêu hóa và độ tiêu hóa các dưỡng chất cao hơn có ý nghĩa so với cá được cho ăn hằng ngày (Lê Thị Tiểu Mi vàctv., 2013).

Tăng khối lượng có sự khác nhau giữa các nghiệm thức bắt đầu từ tháng nuôi thứ 1. Nghiệm thức cho ăn 7 ngày và ngưng 2 ngày có tăng trọng cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 3; nhưng từ tháng thứ 4 trở đi thì nghiệm thức cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày cho tăng trọng cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức cho ăn hằng ngày nhưng khác không có ý nghĩa (p>0,05) so với nghiệm thức cho ăn 3 ngày và ngừng 1 ngày.

Hình 1: Tăng trưởng của cá theo trọng lượng của cá sau 210 ngày nuôi

Kết quả này cho thấy, cá tra có khả năng cải thiện tăng trưởng sau một thời gian gián đoạn thức ăn ăn vào. Khả năng này đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau, khi cung cấp đầy đủ nguồn thức ăn trở lại sau một thời gian bỏ đói hoặc hạn chế thức ăn ăn vào thì tốc độ tăng trưởng của cá nhanh hơn cá được cho ăn hằng ngày (Quinton and Blake, 1990; Dương Hải Toàn vàctv.,2010).Khả năng cải thiện tăng trưởng của cá có thể ảnh hưởng bởi các nhân tố như loài, giới tính, tuổi, giai đoạn phát triển, thay đổi khẩu phần ăn và kiểu gián đoạn thức ăn (Jobling et al., 1994). Theo Wieser et al. (1992) thì sự phản ứng của cơ thể cá từ lúc cho ăn gián đoạn đến giai đoạn cho ăn lại qua các giai đoạn như (i)bị stress: giai đoạn hoạt động mạnh để tìm kiếm thức ăn; (ii)giai đoạn chuyển tiếp: cá tiếp tục thiếu thức ăn, giảm tỷ lệ các hoạt động có liên quan tới trao đổi chất và giảm một số hoạt tính của men phân giải glucose trong cơ vận động của cá; (iii)thích ứng: giai đoạn ổn định sự chuyển hóa vật chất trong cơ thể, nếu cơ thể cá thiếu dưỡng chất trong thời gian dài thì có thể thay thế chất béo bằng chất đạm như một nguyên liệu chuyển hóa chính; và (iv)phục hồi: giai đoạn phục hồi nhanh chóng thông qua tăng tỷ lệ oxy tiêu thụ và tăng trưởng.

Kết quả của nghiên cứu cho thấy ở nghiệm thức cá được cho ăn hằng ngày thì hiệu quả sử dụng thức ăn thấp (0,61) nên hệ số chuyển hóa thức ăn cao (FCR=1,62). Nghiệm thức cho ăn 7 ngày và ngưng 2 ngày có hiệu quả sử dụng thức ăn rất cao (0,69) nên hệ số chuyển đổi thức ăn thấp (FCR=1,44) (Bảng 3). Các chỉ số FCE và FCR giữa nghiệm thức cho ăn hằng ngày và nghiệm thức cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày khác nhau có ý nghĩa thống kê (p>0,05) góp phần giảm chi phí thức ăn và qua đó giảm giảm chất thải vào môi trường trong quá trình nuôi.

Theo Nguyễn Thanh Tâm và Nguyễn Thanh Thảo (2009) thì một trong những giải pháp tiềm năng để giảm chi phí trong nuôi trồng thủy sản chính là dựa vào ưu điểm của phương pháp cho ăn gián đoạn. Khi cho cá tra giống ăn gián đoạn thì lượng thức ăn cá ăn vào thấp nhưng hiệu quả sử dụng thức ăn rất cao, hệ số chuyển đổi thức ăn thấp so với cá được cho ăn hàng ngày (Dương Hải Toàn và ctv., 2010). Russell and Wootton (1992); Wang et al.(2000) và Eroldoğan et al. (2004) đều nhận định khi cho cá ăn gián đoạn làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn mà không cần tăng lượng thức ăn ăn vào.

Bảng 3: Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá tra (FCE)

Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các số liệu cùng nằm trong một cột có mang chữ cái giống nhau thì sai khác không có ý nghĩa P>0,05So sánh hiệu quả kinh tế của phương pháp cho ăn gián đoạn và cho ăn hàng ngày

Bảng 4cho thấy chi phí thức ăn dao động từ 13.250–14.990 đồng/kg cá, cao nhất ở nghiệm thức cho ăn hàng ngày (14.990 đồng/kg cá) và thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày (13.250 đồng/kg cá). Bên cạnh, chi phí sử dụng thuốc và hóa chất ở nghiệm thức cho ăn hàng ngày cao hơn nghiệm thức cho ăn gián đoạn; nghiệm thức cho ăn 7 ngày và ngưng 2 ngày có chi phí sử dụng thuốc hóa chất thấp nhất (887 đồng/kg cá) so với cho cá ăn hàng ngày khá cao (947,5 đồng/kg cá) (Bảng 5). Theo Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn (2009) thì khi khối lượng thức ăn ăn vào càng lớn thì tốc độ tiêu hóa càng chậm, sự hấp thu chất dinh dưỡng giảm và thức ăn cũng không được sử dụng triệt để. Thức ăn không được cá sử dụng hết sẽ thải ra môi trường góp phần gây ô nhiễm môi trường và cũng là điều kiện thuận lợi cho phát sinh bệnh. Nghiệm thức cho ăn hàng ngày chất lượng nước ao nuôi kém, dịch bệnh xuất hiện nhiều hơn nghiệm thức cho ăn gián đoạn làm chi phí sử dụng thuốc và hóa chất cũng cao hơn. Thức ăn cung cấp dinh dưỡng và năng lượng cho động vật nuôi sinh trưởng, phát triển, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, nhưng quyết định năng suất và hiệu quả kinh tế của nuôi cá phần lớn phụ thuộc vào kỹ thuật cho ăn có hợp lý hay không. Cách cho ăn hợp lý trong các điều kiện cụ thể để vừa thỏa mản nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi vừa đạt được sự chuyển hóa thức ăn cao nhất.

Bảng 4: Chi phí thức ăn cho 1 kg cá tăng trọng

Bảng 5: Lượng thức ăn sử dụng, chi phí sử dụng thuốc/hóa chất (T/HC), năng suất thu hoạch của cá

Ghi chú: Số liệu trình bày là số trung bình ± độ lệch chuẩn

Bảng 6cho thấy lợi nhuận của các nghiệm thức dao động từ 985–1.387 triệu đồng/ha, cao nhất ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn 7 ngày ngưng cho ăn 2 ngày (1.387 triệu đồng/ha), sau đó là nghiệm thức cho ăn 3 ngày ngưng cho ăn 1 ngày (1.281 triệu đồng/ha) và thấp nhất là nghiệm thức cho ăn hàng ngày (985 triệu đồng/ha). Tương tự, tỉ suất lợi nhuận ở nghiệm thức cho ăn gián đoạn cao hơn so với nghiệm thức cho cá ăn hàng ngày (Bảng 8). So sánh hiệu quả kinh tế của phương pháp cho ăn gián đoạn và cho ăn hàng ngày về tăng trưởng, chi phí thức ăn và lợi nhuận thì phương pháp cho cá ăn 7 ngày ngưng 2 ngày là hữu hiệu nhất, giảm được chi phí thức ăn và hiệu quả kinh tế cao hơn.

Trong nuôi trồng thủy sản thâm canhthì chi phí thức ăn thường chiếm nhiều hơn 50% tổng chi phí sản xuất (De Silva, 1992).Một trong những biện pháp để giảm chi phí thức ăn đó là tìm ra phương pháp cho ăn tối ưu để giảm chi phí thức ăn qua đó giảm giá thành sản xuất làm tăng hiệu quả cho người nuôi cá. Nghiên cứu này cho thấy nghiệm thức cho ăn 7 ngày ngưng cho ăn 2 ngày có tăng trưởng tốt nhất và giảm lượng thức ăn rất đáng kể (20 tấn/ha) nên giảm chi phí thức ăn.

Bảng 6: Chi phí sản xuất và lợi nhuận của cá sau 7 tháng nuôi

Ghi chú: Số liệu trình bày là số trung bình ± độ lệch chuẩn

Bảng 7cho thấy các yếu tố môi trường các ao nuôi áp dụng phương pháp cho ăn gián đoạn tốt hơn so với ao nuôi được cho ăn hàng ngày; hàm lượng oxy hòa tan cao, hàm lượng NO2-, TSS và BOD giảm đáng kể so với các ao cho ăn hàng ngày. Trong suốt thời gian nuôi thì nhiệt độ (28-320C) và pH (6,45-7,6) ở các nghiệm và nằm trong khoảng thích hợp và ít biến động trong suốt quá trình nuôi. Riêng hàm lượng NO2-ở các nghiệm thức dao động từ 0,006 mg/L đến 0,097 mg/L; trong đó nghiệm thức cho ăn hàng ngày có hàm lượng NO2-cao nhất và thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn 7 ngày ngưng cho ăn 2 ngày. Trong tháng thứ 5 thì hàm lượng NO2-ở các nghiệm thức đều giảm thấp, do lúc thu mẫu thì các ao vừa được hút bùn đáy nên chất lượng nước tốt hơn. Hàm lượng TSS dao động từ 16,3 đến 83,3 mg/L và BOD dao động từ 3,9 đến 20,9 mg/L đều nằm trong khoảng cho phép. Nghiệm thức cho ăn hàng ngày có hàm lượng TSS cao hơn so nghiệm thức cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày. Kết quả theo dõi các yếu tố môi trường thấy khi áp dụng phương pháp cho ăn gián đoạn sẽ góp phần hạn chế tác động môi trường từ chất thải ao nuôi.

Bảng 7: Sự biến động của các yếu tố môi trường trong các ao nuôi cá tra thâm canh

Ghi chú: Số liệu trình bày là số trung bình ± độ lệch chuẩn

Kết quả từ 8 ao nuôi áp dụng phương pháp cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày và 2 ao cho ăn liên tục cho thấy hiệu quả kinh tế được cải thiện rất tốt. Giảm lượng thức ăn cho cá ăn dẫn đến giảm chất thải từ ao nuôi ra môi trường, cùng với giảm sử dụng thuốc và hóa chất cho ao nuôi. Các ao áp dụng phương pháp cho ăn gián đoạn thì chi phí thuốc hóa chất giảm trung bình 792±73,2 đồng/1 kg cá thịt so với các aocho ăn hàng ngày trung bình là 1.050±50,0đồng/kg cá, giảm từ 70,2 đến 126 triệu đồng/ha nuôi nếu năng suất đạt 300 tấn (Bảng 10). Bên cạnh, chất lượng sản phẩm được cải thiện và đảm bảo yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm cho nhu cầu xuất khẩu đồng thời đảm bảo an toàn môi trường, an toàn dịch bệnh cho nghề nuôi cá tra thâm canh.

Trong cơ cấu chi phí nuôi cá tra, chi phí thức ăn chiếm 86%, giống chiếm 6,2%, thuốc thú y thủy sản chiếm 2,5%, các khoản khác chiếm từ 0,3 đến 2% (Nguyễn Phú Son và ctv., 2013). Áp dụng phương pháp cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày thì FCR giảm từ 0,15 đến0,3.Theo giá thức ăn trung bình là 12.500 đ/kg thì chi phí thức ăn đã giảm từ 1.875 đến 3.750 đ/kg cá tương đương giảm từ 563 đến 1.112,5 triệu đồng/ha với năng suất 300 tấn (Bảng 8). Chi phí sản xuất ở các ao cho ăn hàng ngày từ năm 2011 đến 2013 dao động từ 23.000 đến 24.000 đ/kg (Tổng cục Thủy sản, 2011, 2012 và 2013) thì phương pháp cho ăn gián đoạn này đã làm giảm chi phí sản xuất góp phần giảm thua lỗ trong điều kiện giá giảm thấp hoặc nâng cao mức lãi khi giá thu mua tăng.

Ứng dụng phương pháp cho ăn gián đoạn trong nuôi cá tra thương phẩm đã mang lại hiệu quả rõ rệt góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất cho người nuôi nói riêng và cho nghề nuôi cá tra nói chung; bên cạnh đó còn góp phần giảm tác động tiêu cực đến môi trường qua giảm lượng thức ăn sử dụng, hạn chế sử dụng thuốc và hóa chất. Cải tiến các biện pháp kỹ thuật trong khâu quản lý và chăm sóc vật nuôi bằng cách cho ăn gián đoạn thay vì nuôi theo kỹ thuật truyền thống cho ăn hàng ngày nhằm giảm chi phí thức ăn nhưng sinh trưởng và năng suất nuôi không giảm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, phù hợp với khả năng và điều kiện nuôi của từng nông hộ, dễ dàng thực hiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Bảng 8: Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR), giá thành sản suất, giá bán, chi phí thuốc hóa chất và tỷ suất lợi nhuận ở các ao nuôi cá tra thâm canh theo phương pháp cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày

Ghi chú: Số liệu trình bày là số trung bình ± độ lệch chuẩn

Phương pháp cho ăn gián đoạn cho cá tra giai đoạn nuôi thương phẩm không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống, năng suất và tăng trưởng, mà giảm lượng thức ăn sử dụng nên góp phần giảm tác động môi trường. Phương pháp cho ăn gián đoạn 7 ngày cho ăn và 2 ngày ngừng cho ăn trong điều kiện nuôi thí nghiệm trong ao và ứng dụng thực tiễn trong ao góp phần giảm chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi. Phương pháp cho ăn 7 ngày ngưng 2 ngày cần được phổ biến áp dụng rộng rãi trong nuôi cá tra thâm canh.

LỜI CẢM TẠ

Nghiên cứu này có sự phối hợp với dự án iAQUA (Project number: DFC 12-014AU).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Amin, A.K.M,Rohul, M.A.J.,Bapary, M.S.,Islam, M.,Shajahan and Hossain. M.A.R., 2005. The inpacts of compensatory growth on food intake, growth rate and efficiency of feed utilization in Thai pangas (Pangasius hypophthalmus). Pakistan Journal of Biological Sciences 8, 766-770, 2005.

Chan, C.R, Lee, D.N, Cheng, Y.H,, Hsieh, D.J, and Weng, C.H, 2008. Feed Deprivation and Re-feeding on Alterations of Proteases in Tilapia Oreochromis mossambicus. Zoological Studies 47(2): 207-214.

Chatakondi, N.G., and Yant, R.D. 2001. Application of compensatory growth to enhance production in channel catfish Ictalurus punctatus. Journal of World Aquaculture Society of 32, 278-285.

De Silva, S.S, 1992. Fish nutrition research for semi – intensive culture systems in Asia. Asian fisheries Scince, 5: 129 – 144.

Diệp Quốc Phục, 2011. Ảnh hưởng của nhịp cho ăn, hàm lượng đạm trong thức ăn lên sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá Lăng Nha (Mystus wyckioides). Luận văn cao học, Khoa Thủy Sản – Đại Học Cần Thơ.

Dương Hải Toàn, Lê Thị Tiểu Mi, Nguyễn Thanh Phương, 2010. Ảnh hưởng của cho ăn gián đoạn và luân phiên lên tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giống.Kỷ yếu hội nghị khoa học thủy sản lần thứ 4: 178-190.

Eroldoğan, O.T., Kumlu, M. and Akataş, M., 2004. Optimum feeding rate for European sea bass Dicentrarchus labraxreared seawater and freshwater. Aquaculture 231 (1-4): 501-515.

Eroldoğan, O.T., Taşbozan, O. and Tabakoğlu, S, 2008. Effects of restricted feeding regimes on growth and feed utilization of juvenile gilthead sea bream, Sparusaurata. Journal of the World Aquaculture Society, 39(2): 267-274.

Harpaz S, Y Hakim, T Slosman, A Barki, I Karplus, OT Eroldoğan, 2005. Effects of different feeding levels during day and/or night on growth and brush border enzyme activity in juvenile Lates calcarifer fish rearedin freshwater re-circulating tanks. Aquaculture 248: 325-335.

Hayward RS, DB Noltie, N Wang, 1997. Use of compensatory growth to double hybrid sunfish growth rates. Trans. Am. Fish Soc. 126: 316-322.

Jobling, M. Meloy, O.H. dos Santos, J. and Christiansen, B., 1994. The compensatory growth response of theAtlantic cod: e!ects of nutritional history. Aquaculture International 2, 75-90.

Jyrki Nikkia, Juhani Pirhonen, Malcolm Jobling and Juha Karjalainen, 2003. Compensatory growth in juvenile rainbow trout, Oncorhynchus mykiss (Walbaum), held individually. NFH, University of Tromso, Tromso 9037, Norway.

Krogdahl, Å. and Bakke-McKellep, A.M, 2005. Fasting and refeeding cause rapid changes in intestinal tissue mass and digestive enzyme capacities of Atlantic salmon (Salmo salar L.). Comp. Biochem. Physiol., 141A: 450-460.

Lê Đức Duy, 2011. Ảnh hưởng của nhịp cho ăn và hàm lượng protein lên hiệu quả sử dụng thức ăn của cá trê lai (Clarias macrocephalus x clarias gariepinu. Luận văn cao học. Khoa Thủy Sản – Đại Học Cần Thơ.

Lê Thanh Hùng. 2008. Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Thành Phố Hồ Chí Minh. 299 trang.

Lê Thị Tiểu Mi, Trần Thị Hương Diễm, Nguyễn Thị Kim Hà, Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Thanh Phương, 2013. Hoạt tính men tiêu hóa amylase, pepsin và sự tiêu hóa thức ăn theo chu kỳ cho ăn gián đoạn ở cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)giống. Nông nghiệp, thủy sản và sinh học, 25: 200 – 207.

Li. M.H., Robinson. E.H., Bosworth. B. G. 2005. Effects of periodic feed deprivation on growth, feed efficiency, processing yield, and body composition of channel catfish Ictalurus punctatus. Journal of the World Aquaculture Society 36 (4) 444-453.

Mommsen, T.P., Osachoff, H.L. and Elliott, M.E, 2003. Metabolic zonation in teleost gastrointestinal track. J.Comp. Physiol., 173(B): 409–413.

Nguyễn Phú Son, Nguyễn Văn Thuận và Lê Thị Thanh Hiếu, 2013. Thị trường cá tra Việt Nam, phân phối thu nhập chuỗi – giá thành sản xuất cá tra nguyên liệu, giải pháp phát triển ngành. Khoa Kinh tế và Quản trị Kinh Doanh - Đại học Cần Thơ.

Nguyễn Thanh Thảo và Nguyễn Thanh Tâm, 2009. Khảo sát khả năng tăng trưởng bù của cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus). Kỷ yếu hội nghị khoa học thủy sản lần thứ 3: 87-94.

Phạm Thị Thu Hồng, 2012. Phân tích hiện trạng sản xuất, quản lý ngành hàng cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)ở 4 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Vĩnh Long. Khoa Thủy Sản – ĐHCT.

Quinton, J.C and Blake, R.W., 1990. The effect of feed cycling and ration level on the compensatory growth response in rainbow trout, Oncorhynchus mykiss. Journal of Fish Biology 37, 33-41.

Russel, N.R. and Wootton, R.J., 1992. Appetite ang growth compensation in the European minnow, Phoxinus phoxinus(Cyprinidae) following short term of food restriction. Environ. Biol. Fishes 34: 277-285.

Tian, X., Quin, J.G., 2003. A single phase of food deprivation provoked compensatory growth in barramudi Lates calcarifer. Aquaculture 224: 169-179.

Tổngcục thủy sản, 2011. Báo cáo Tình hình sản xuất và tiêu thụ cá tra ĐBSCL năm 2011.

Tổng cục thủy sản, 2012. Báo cáo Tình hình sản xuất và tiêu thụ cá tra ĐBSCL năm 2012.

Tổng cục thủy sản, 2013. Báo cáo Tình hình sản xuất và tiêu thụ cá tra ĐBSCL năm 2013.

Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn. 2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Thành Phố Hồ Chí Minh. 191 trang.

VASEP, 2013. Phát triển thị trường và nâng cao giá trị gia tăng cá tra.

Wang, Y., Cui. Y., Yang. Y.X. and Cai, F.S., 2000. Compensatory growth in hybrid tilapia, Oreochromis mossambicus x O. niloticus, reared in seawater. Aquaculture 189, 101- 108.

Wieser, W., Krumschnabel, G and Ojwang-Okwor, J.P., 1992. The energetics of starvation and growth after refeeding injuveniles of three cyprinid species.nviromental Biology of Fishes, 33, 63-71.