Nguyen Hong Dan * and Nguyen Bach Dan

* Corresponding author (nguyenhongdan2016@gmail.com)

Abstract

This article aims to analyse the transformation of Vietnamese literature since the Doi Moi reform in 1986, highlighting its journey of keeping pace with contemporary times while preserving national identity. With a renewed artistic mindset, modern writing techniques, and an expanded range of themes, literature has been able to reflect contemporary life profoundly. Artistic methods such as the stream of consciousness, nonlinear structures, and intertextuality have been flexibly employed, contributing to a new and dynamic face of Vietnamese literature. However, the core of national culture has been preserved by maintaining its distinctive cultural elements in both the creation and reception of art, especially within the context of globalisation and modernisation. This process of modernisation has been conducted in a spirit of creative acculturation rather than passive borrowing. As a result, artistic creativity in Vietnamese literature during the Đổi Mới period has both kept pace with the times and preserved the national identity.

Keywords: Cultural acculturation, modern Vietnamese literature, national identity, Vietnamese Literature since the Doi Moi

Tóm tắt

Bài viết được thực hiện nhằm phân tích sự chuyển mình của văn học Việt Nam từ sau đổi mới 1986 đến nay trong hành trình bắt nhịp với thời đại mà không đánh mất bản sắc dân tộc. Với tư duy nghệ thuật đổi mới, kỹ thuật viết hiện đại và sự mở rộng đề tài đã giúp văn học phản ánh sâu sắc đời sống đương đại. Các thủ pháp như dòng ý thức, kết cấu phi tuyến hay thủ pháp liên văn bản được vận dụng linh hoạt, góp phần tạo nên diện mạo mới cho văn học nước nhà. Dù chịu tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa và hiện đại hóa, cốt lõi văn hóa dân tộc vẫn được gìn giữ thông qua việc bảo tồn những yếu tố đặc trưng trong sáng tác và tiếp nhận nghệ thuật. Quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam không diễn ra theo hướng vay mượn thụ động, mà là sự tiếp biến có chọn lọc và sáng tạo. Nhờ đó, sáng tạo nghệ thuật trong văn học thời kì đổi mới vừa bắt nhịp với thời đại vừa giữ được chiều sâu văn hóa Việt.

Từ khóa: Bản sắc dân tộc, tâm thức Việt, tiếp biến văn hóa, văn học Việt Nam sau Đổi mới 1986

Article Details

References

Chánh, N. Q. (2005). Ê, tao đây. Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh.

Đệ, P. C. (2004). Văn học Việt Nam thế kỉ XX- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. Nhà xuất bản Giáo dục.

Hà, N. V. (2005). Khải huyền muộn. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Hà, Đ. N. (2016). Thầy Đàn. Nhà xuất bản Trẻ.

Kỳ, L. T. (2013). Nắng vỡ. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Mạnh, N. Đ. (2003). Tự truyện và phê bình. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Mạnh, N. Đ. (2004). Những vấn đề văn học hiện đại. Nhà xuất bản Giáo dục.

Nam, T. H. (2021). Công nghệ hóa và khủng hoảng bản sắc trong văn học Việt hiện đại. Tạp chí Văn học, số 4.

Ninh, B. (1990). Nỗi buồn chiến tranh. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Nguyên, N. (2011). Khi người ta cúi mặt. Nhà xuất bản Lao động.

Phương, N. B. (2004). Người đi vắng. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Phương, N. B. (2013). Những đứa trẻ chết già. Nhà xuất bản Trẻ.

Sử, T. Đ. (2015). Tự sự học – Từ lí thuyết đến thực tiễn văn học. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

Tư, N. N. (2005). Cánh đồng bất tận. Nhà xuất bản Trẻ.

Tường, H. M. (2008). Thời của thánh thần. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Thái, H. A. (2002). Cõi người rung chuông tận thế. Nhà xuất bản Trẻ.

Thái, H. A. (2022). Hà Nội nhiều mây có lúc có mưa ngâu. Nhà xuất bản Trẻ.

Thuận. (2005). Paris 11 tháng 8. Nhà xuất bản Đà Nẵng.

Thuận. (2008). Chậm trễ. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Thúy, Đ. L. (2005). Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin.

Thiệp, N. H. (2007). Gạ tình lấy điểm. Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Trường, N. K. (1990). Mảnh đất lắm người nhiều ma. Nhà xuất bản Tác phẩm Mới.