Ngày xuất bản: 23-04-2025

Vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên tại khu bảo tồn thiên nhiên Chạm Chu, thuộc xã Yên Thuận, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang

Đỗ Công Ba
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện tập trung vào vai trò của cộng đồng địa phương trong việc bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá mức độ tham gia của cộng đồng, các khó khăn, thách thức gặp phải và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn. Phương pháp nghiên cứu bao gồm khảo sát thực địa, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm với người dân và cán bộ quản lý khu bảo tồn. Kết quả nghiên cứu cho thấy cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và bảo vệ rừng, khai thác tài nguyên một cách bền vững và truyền bá tri thức bản địa. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy vẫn tồn tại nhiều thách thức như nhận thức chưa đầy đủ, áp lực sinh kế và thiếu sự hỗ trợ từ chính quyền. Các giải pháp được đề xuất trong nghiên cứu như nâng cao nhận thức, phát triển sinh kế bền vững, tăng cường hợp tác giữa cộng đồng và chính quyền và ứng dụng công nghệ vào quản lý tài nguyên rừng.

Đánh giá chất lượng môi trường sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS

Trần Huỳnh Kim, Nguyễn Thị Hồng Điệp, Nguyễn Trọng Nguyễn, Dương Cơ Hiếu, Huỳnh Thị Thu Hương
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá chất lượng môi trường sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2023 sử dụng ảnh vệ tinh MODIS. Phương pháp phân tích thành phần chính (PCA) được sử dụng để ước tính chỉ số sinh thái viễn thám (RSEI) với 04 thành phần gồm độ xanh (NDVI), độ ẩm (WET), độ khô (NDBSI) và nhiệt độ (LST). Kết quả đánh giá chất lượng môi trường sinh thái vùng ĐBSCL năm 2023 được chia thành 5 cấp độ gồm kém, khá kém, trung bình, tốt và rất tốt. Trong đó, hơn 95% diện tích vùng ĐBSCL đạt chất lượng sinh thái từ mức trung bình đến tốt. Mối quan hệ giữa chỉ số sinh thái viễn thám và hiện trạng sử dụng đất cho thấy hiện trạng rừng có chất lượng sinh thái tốt nhất, lần lượt tiếp theo là lúa 03 vụ, cây lâu năm, lúa 02 vụ, cây hàng năm, lúa tôm và công trình xây dựng. Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp cơ sở khoa học quan trọng hỗ trợ quản lý, xây dựng kế hoạch sử dụng đất bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái khu vực ĐBSCL.

Bước đầu nghiên cứu thành lập bản đồ đất từ mối quan hệ giữa hiện trạng sử dụng đất và các loại đất tại huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang

Bùi Mai Trinh, Lê Dân, Võ Quang Minh, Phạm Cẩm Đang
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mối quan hệ giữa hiện trạng sử dụng đất và các loại đất, từ đó thành lập bản đồ đất tại huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang. Tài liệu, bản đồ đất, ảnh viễn thám Sentinel-2 được tiến hành thu thập; tổng hợp và xử lý; giải đoán ảnh viễn thám, xác định quan hệ dựa trên hiện trạng với loại đất và; kiểm tra thực địa đối chiếu độ tin cậy với 122 điểm khảo sát thực địa. Kết quả giải đoán xác định có 07 loại hiện trạng gồm: công trình xây dựng, lúa tôm, lúa 2 vụ, khóm, lúa – màu, cây lâu năm và thuỷ sản. Mối quan hệ của nhóm đất trên từng loại hiện trạng đã được xác định trong nghiên cứu, bao gồm: đất nhân tác (Nt) - công trình xây dựng; đất phèn hoạt động (Sj) - lúa tôm, lúa 2 vụ, lúa - màu và thuỷ sản; đất phèn lập liếp (Sv) – khóm và đất phèn nhiễm mặn đã lập liếp (SMv) – cây lâu năm có mối tương quan cao. Bản đồ đất huyện Vĩnh Thuận đã được thành lập dựa trên mối quan hệ với độ chính xác 67,5%.

Khảo sát quá trình Fenton dị thể sử dụng hạt nano sắt hóa trị 0 trên nền Graphene oxide dạng khử (rGO/nZVI) để xử lý độ màu trong nước thải dệt nhuộm

Lăng Hiệp Phong, Hồ Thuý An, Huỳnh Hồng Sa, Phan Thị Thanh Tuyền, Nguyễn Xuân Lộc, Đỗ Thị Mỹ Phượng
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng phương pháp Taguchi để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hiệu suất xử lý độ màu của nước thải dệt nhuộm. Vật liệu nano sắt hóa trị 0 (nZVI) và tổ hợp nZVI trên graphene oxide dạng khử (rGO/nZVI) được sử dụng làm xúc tác cho phản ứng Fenton dị thể. Việc phân tích ANOVA cho thấy pH là yếu tố quan trọng nhất, đóng góp 55,9% đối với nZVI và 92,4% đối với rGO/nZVI. Các yếu tố khác như liều lượng vật liệu và H₂O₂ cũng có ảnh hưởng nhưng ít hơn.Với liều lượng vật liệu 1000 mg/L, H₂O₂ 1000 mg/L, pH 3 và thời gian phản ứng 90 phút, khi sử dụng nZVI thu được hiệu quả loại bỏ độ màu 84,2% trong lần đầu tiên và giảm còn 56,4% sau sáu chu kỳ tái sử dụng. Với rGO/nZVI, hiệu suất đạt đến 96,2% trong lần đầu, nhưng giảm chỉ còn 42,1% sau sáu lần tái sử dụng. Kết quả cho thấy tổ hợp rGO/nZVI cải thiện hiệu suất xử lý độ màu so với nZVI đơn lẻ, mặc dù khả năng tái sử dụng của vật liệu tổ hợp vẫn cần cải thiện.  

Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố vận hành tháp đệm đến khả năng hấp thụ khí SO2

Phạm Văn Toàn, Lê Minh Thuận, Trang Thái Nguyên, Trần Minh Viên
Tóm tắt | PDF
Ô nhiễm không khí do khí SO2 từ công nghiệp đang là vấn đề được quan tâm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và môi trường. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả xử lý khí SO2 bằng tháp đệm, tập trung vào ba yếu tố gồm chiều cao lớp vật liệu đệm, tỷ lệ khí - lỏng (L/G) và loại dung dịch hấp thụ. Thí nghiệm được thực hiện trong điều kiện có kiểm soát với nhiệt độ dòng khí 40 ± 1oC, áp suất 1 atm và nồng độ khí SO2 đầu vào. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu suất xử lý SO2 cao nhất đạt 85,01 ± 1,19% ứng với trường hợp lớp vật liệu đệm dày 0,7 m, tỷ lệ L/G 0,009 và dung dịch NaOH 0,05M. Điều này chứng tỏ ba yếu tố trên ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả xử lý khí SO2. Để cải thiện công nghệ xử lý khí SO2 bằng tháp hấp thụ, việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố khác như loại vật liệu đệm, nhiệt độ và áp suất dòng khí được thực hiện là rất cần thiết.

Đánh giá tiềm năng đất đai cho phát triển nông nghiệp tại huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang

Phan Chí Nguyện, Nguyễn Tiến Định, Phạm Thanh Vũ
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định khả năng phù hợp đất đai cho các loại hình canh tác nông nghiệp trên địa bàn huyện Long Mỹ làm cơ sở bố trí sử dụng đất đai phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng của huyện. Phương pháp đánh giá thích nghi đất đai về tự nhiên và kinh tế được thực hiện theo FAO (1976 và 2007). Kết quả đã xác định được 10 vùng thích nghi đất đai tự nhiên, 9 vùng thích nghi đất đai kinh tế và 13 vùng thích nghi kinh tế kết hợp tự nhiên cho bảy loại hình sử dụng đất bao gồm lúa 2 vụ, lúa 2 vụ - cá, lúa - tôm, mãng cầu xiêm, bưởi, khóm và rau màu. Trên cơ sở đó, việc bố trí chín vùng sản xuất nông nghiệp cho huyện Long Mỹ đã được đề xuất. Từ những yếu tố hạn chế cho từng vùng sản xuất, kết quả cũng đã đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện trong thời gian tới.

Hiện trạng phát sinh chất thải nhựa trong mô hình canh tác lúa: Trường hợp nghiên cứu tại thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu

Trần Thị Tú Ni, Nguyễn Thanh Giao
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng phát sinh chất thải nhựa (CTN) trong canh tác lúa tại xã Phong Thạnh Đông, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu bằng cách khảo sát thực địa và phỏng vấn trực tiếp nông hộ. Kết quả cho thấy khối lượng CTN phát sinh từ việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật với khoảng 1288.7 g/1.000m2/vụ (12,9 kg/ha/vụ). Tổng khối lượng CTN phát sinh từ canh tác lúa tại tỉnh Bạc Liêu ước tính khoảng 2.435 tấn/vụ. Phần lớn CTN phát sinh được xử lý bằng cách đốt chiếm 93,3%, thu gom chiếm 33,3%, vứt chung với rác sinh hoạt hoặc vứt ngay tại ruộng chiếm 6,7% và chôn lấp chiếm 3,3%. Việc quản lý CTN chưa được thực hiện tốt bởi các biện pháp hầu như tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính quyền địa phương và cơ quan quản lý môi trường cần tuyên truyền về sự cần thiết của quản lý chất thải nhựa trong sản xuất nông nghiệp. Các nghiên cứu tiếp theo khi được thực hiện cần tập trung vào giải pháp quản lý chất thải nhựa trong canh tác lúa.

Biến động cấu trúc thành phần loài giáp xác râu ngành (Cladocera) dưới sự thay đổi của độ mặn vùng cửa sông Hậu

Nguyễn Công Tráng, Âu Văn Hóa, Vũ Ngọc Út
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá sự biến động thành phần loài giáp xác râu ngành (Cladocera) dưới sự thay đổi của độ mặn ở vùng cửa sông Hậu. Độ mặn và Cladocera được thu hàng tháng trong thời gian từ tháng 7/2017 đến tháng 6/2018 vào lúc đỉnh triều và chân triều tại Cái Côn, Đại Ngãi và Trần Đề. Kết quả cho thấy, độ mặn trên sông Hậu từ 0 đến 20‰, xâm nhập mặn xảy ra từ tháng 12/2017 đến tháng 4/2018. Có 12 loài Cladocera được ghi nhận với tổng mật độ từ 4.571 đến 21.898 ct/m3. Kết quả hồi quy cho thấy, số lượng loài và mật độ Cladocera đều tương quan nghịch với độ mặn. Độ mặn từ 0 đến 2‰ là khoảng thích hợp cho Cladocera trên sông Hậu phát triển. Xâm nhập mặn đã làm giảm thành phần và mật độ Cladocera tại vùng hạ lưu sông Hậu.

Khả năng xử lý chì trong dung dịch bằng hỗn hợp dịch chiết từ lá sả (Cymbopogon citratus) và lá diệp hạ châu (Phyllanthus urinaria) kết hợp với TIO2

Phan Thị Thanh Tuyền, Nguyễn Thị Mỹ Tâm, Lâm Bá Lộc, Bùi Thị Như Ý, Lăng Hiệp Phong, Nguyễn Xuân Lộc, Đỗ Thị Mỹ Phượng
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá khả năng hấp phụ ion chì (Pb) của hai loại vật liệu nano TiO2, được tổng hợp từ dịch chiết của lá diệp hạ châu (Phyllanthus urinaria) và lá sả (Cymbopogon citratus) với Titanium isopropoxide bằng phương pháp sol-gel. Kết quả thí nghiệm cho thấy TiO2@Cymbopogon citratus hấp phụ tốt hơn ở pH 6, với thời gian hấp phụ 120 phút, liều lượng 0,01 g và nồng độ Pb 50 mg/L. Động học hấp phụ phù hợp với mô hình bậc hai và Elovich. Quá trình hấp phụ của TiO2@Cymbopogon citratus tuân theo mô hình đẳng nhiệt Langmuir (hấp phụ đơn lớp), trong khi TiO2@Phyllanthus urinaria theo mô hình Freundlich (hấp phụ đa lớp). Bên cạnh đó, khả năng hấp phụ tối đa (qmax) của TiO2@Cymbopogon citratus (qmax = 467 mg/g) cao hơn so với TiO2@Phyllanthus urinaria (qmax = 362,7 mg/g). Kết quả nghiên cứu cho thấy dịch chiết từ thực vật kết hợp với TiO2 là chất hấp phụ hiệu quả trong việc loại bỏ Pb trong môi trường nước.  

Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải điện tử tại các hộ gia đình thị xã Long Mỹ và huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang

Trần Gia Bảo, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Quách Vĩnh, Nguyễn Thị Kim Ngân, Đặng Cẩm Nhung, Nguyễn Thanh Giao
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiện trạng phát sinh và công tác quản lý nhằm đề xuất giải pháp quản lý chất thải điện tử tại các hộ gia đình thị xã Long Mỹ và huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Số liệu được thu thập từ 180 hộ dân cùng 20 cơ sở thu gom tái chế cho thấy số lượng phát sinh từ 08 loại thiết bị là 750 chiếc/năm với khối lượng 2.609 kg/năm (trung bình 3,97 kg/người/năm), trong đó bóng đèn là loại thiết bị định mức thải cao nhất nhưng lại có tuổi thọ thấp nhất (3,3 năm). Công tác quản lý chất thải điện tử tại khu vực còn nhiều hạn chế khi các hộ dân tự thu gom và xử lý là chủ yếu với hình thức bán phế liệu (80%). Bên cạnh đó, chủ thể đại diện thực hiện quản lý là các nhà sản xuất chưa triển khai các địa điểm thu hồi thiết bị trên khu vực. Từ đó, giải pháp quản lý cho khu vực được đề xuất bằng mô hình thu hồi và xử lý nhằm thực hiện đúng theo chính sách pháp luật, góp phần đạt mục tiêu tái chế theo quy định.

Hiệu quả của phân cá sản xuất theo phương pháp truyền thống đến sinh trưởng và năng suất của cây cải bẹ xanh (Brassica juncea L.)

Lê Trần Thanh Liêm, Phạm Văn Trọng Tính, Lâm Thị Mỹ Hảo, Nguyễn Thị Kim Phước
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định nồng độ phân cá ủ truyền thống phun qua lá thích hợp cho sinh trưởng và năng suất của cây cải xanh. Thí nghiệm được thực hiện theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức và 3 lần lặp lại. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc phun bổ sung phân cá với nồng độ khác nhau ảnh hưởng đến chỉ tiêu sinh trưởng tại thời điểm 20 ngày sau khi trồng (ngày thu hoạch). Ở nồng độ phun 2,5 mL/L cho kết quả sinh trưởng cao nhất và ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến trọng lượng cây. Năng suất thực tế trung bình của cải xanh trong thí nghiệm đạt 10,71 tấn/ha. Năng suất thương phẩm trung bình đạt 10,04 tấn/ha và tỉ lệ thương phẩm trung bình là 93,64%. Độ Brix trung bình của cải xanh trong thí nghiệm đạt 3,27%. Như vậy, việc ứng dụng phân cá phun qua lá trong canh tác cải xanh giúp cải thiện sinh trưởng và năng suất nhưng không thay đổi độ Brix của cải xanh thương phẩm.

Tiềm năng giảm ô nhiễm trong nước thải đô thị của năm loài hoa kiểng trong điều kiện thí nghiệm

Võ Thị Phương Thảo, Ngô Thụy Diễm Trang
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá khả năng làm giảm chất ô nhiễm của năm loài hoa kiểng gồm thủy trúc (Cyperus alternifolius), bách thủy tiên (Echinodorus cordifolius),chuối hoa (Canna generalis), chuối mỏ két (Heliconia psittacorum),chiều tím (Ruellia brittoniana) và không trồng cây (đối chứng).Cây được trồng trên bè nổi ở mật độ 27 cây/m2 để xử lý nước thải đô thị và được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại. Cây góp phần làm giảm đạm (N),lân (P), nhu cầu oxy hóa học (COD) và cải thiện điều kiện oxy (DO) trong nước sau 7 ngày xử lý, nhưng DO và COD vẫn chưa đạt QCVN 08:2023/BTNMT). Cây đã giúp tích lũy thêm 6,68 > 4,46 > 4,26 > 2,93 > 1,78 g N/bể (tương ứng chuối hoa > thủy trúc > bách thủy tiên > chiều tím > chuối mỏ két) và 0,21 > 0,20 > 0,18 > 0,10 > 0,07 g P/bể (tương ứng chuối hoa > chiều tím > thủy trúc > bách thủy tiên > chuối mỏ két). Năm loài hoa kiểng nghiên cứu đóng góp loại bỏ trung bình 7,0-11,8% N và 4,0-9,3% P trong hệ thống xử lý. Chuối hoa và thủy trúc tăng trưởng và phát triển tốt giúp loại bỏ N, P trong hệ thống vì thế chúng là những loài tiềm năng và phù hợp nhất để trồng trên bè nổi giúp cải thiện chất lượng nước kết hợp tạo cảnh quan đô thị.

Đặc điểm phân bố và các yếu tố điều chỉnh tỷ lệ N:P trong đất của rừng trồng thông ba lá (Pinus kesiya Royle ex Gordon) tại khu vực Bảo Lâm thuộc tỉnh Lâm Đồng

Lê Văn Cường
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm tra sự phân bố tỷ lệ N:P trong đất và các yếu tố điều chỉnh của nó dựa trên các yếu tố đất(dung trọng,hàm lượng nước,hàm lượng carbon hữu cơ và pHH2O) và lâm phần(đường kính ngang ngực,chiều cao vút ngọn,mật độ,độ tàn che,sinh khối cây tầng thấp và vật rơi rụng) từ các tuổi khác nhau của rừng trồng Thông ba lá (5, 11, 15, 25 và 35 năm tuổi) tại Công ty Lâm nghiệp Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.Kết quả cho thấy: (1) Tỷ lệ N:P trong đất ở các độ sâu tầng đất khác nhau giảm đáng kể theo tuổi rừng trồng; Tỷ lệ N:P trong đất giảm đáng kể khi độ sâu tầng đất tăng và tỷ lệ N:P cao nhất nằm ở độ sâu 0 - 20 cm trên cùng của đất; (2)Tỷ lệ N:P trong đất ở rừng Thông ba lá chủ yếu được giải thích bằng các yếu tố đặc điểm đất (dung trọng và hàm lượng nước);(3) Các yếu tố đặc điểm lâm phần (đường kính ngang ngực,chiều cao vút ngọn,mật độ,độ tàn che,sinh khối cây tầng thấp và vật rơi rụng)cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp tỷ lệ N:P của đất ở rừng Thông ba lá. ết quả của nghiên cứu này góp phần vào sự hiểu biết sâu sắc hơn về các chu trình sinh địa hóa và cơ chế cân bằng của N và P trong đất.

Xây dựng bản đồ phân bố không gian hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Tân Hưng, tỉnh Long An sử dụng kết hợp chuỗi ảnh Sentinel 2 và Sentinel 1

Nguyễn Thị Ngọc Thuý Nhớ, Nguyễn Kiều Diễm, Phan Kiều Diễm
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện vớimục tiêu xây dựng bản đồ phân bố không gian hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Tân Hưng, tỉnh Long An qua việc sử dụng kết hợp 2 loại ảnh Sentinel-2 và Sentinel-1. Phương pháp phân loại có kiểm định sử dụng thuật toán Random Forest được áp dụng để tách các hiện trạng trên nền tảng điện toán đám mây Google Earth Engine (GEE). Kết quả đã phân loại được 10 hiện trạng năm 2023 gồm rừng, lúa 2 vụ, lúa 3 vụ, lúa mùa nổi, cây công nghiệp ngắn ngày (mè), cây lâu năm, cây hàng năm, thủy sản/mặt nước, đất xây dựng và sông rạch. Kết quả phân loại được kiểm chứng bởi 138 điểm khảo sát với độ chính xác toàn cục 84,17% và hệ số kappa là 0,68. Kết quả nghiên cứu là nguồn cơ sở dữ liệu cần thiết hỗ trợ nhà quản lý giám sát tình hình sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, phục vụ công tác quy hoạch, định hướng sử dụng đất nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay.  

Nghiên cứu sử dụng viên đất sét nung làm vật liệu đệm trong hệ thống lọc sinh học ngập nước xử lý nước thải

Nguyễn Huỳnh Phước Thành, Trần Hoàng Phúc, Kim Lavane
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu suất xử lý nước thải sinh hoạt (NTSH) của cột lọc sử dụng viên đất sét nung làm vật liệu đệm. Thí nghiệm được tiến hành trên 03 cột lọc với thông số vận hành như đường kính trung bình hạt 5 - 10 mm, lưu lượng 7,07 L/h (tốc độ lọc 0,1 m/h) và được thu nước tại các chiều cao 0,4 m, 0,6 m và 0,8 m. Kết quả cho thấy cột lọc có độ dày 0,8 m viên đất sét nung xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn loại A của QCVN 14:2008/BTNMT. Hiệu suất xử lý COD, BOD5, P-PO43-, N-NO3-, N-NH4+ lần lượt là 83,8%, 84,1%, 42,2%, 74,4%, 30,4%. Kết quả phân tích enzyme cho thấy vi sinh hoạt động mạnh chủ yếu ở lớp vật liệu phía trên. Hiệu suất xử lý tăng không đáng kể khi tăng chiều dày lớp vật liệu. Trong nghiên cứu này, kết quả cho thấy đất sét nung có thể áp dụng làm giá thể sinh học cho hệ thống lọc sinh học để xử lý nước thải.

Thành phần loài cá trong mùa lũ ở khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Trà Sư, tỉnh An Giang

Lê Văn Dũ, Trần Thị Kim Hồng, Trương Hoàng Đan, Trần Sỹ Nam, Trần Nguyên Kháng, Đỗ Diễm Trinh, Lê Thị Diễm My, Lê Nguyễn Khang, Pham Hoang Chinh, Nguyễn Vũ Hào
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu về thành phần loài cá tại vùng lõi và các cống lấy nước đầu vào của Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Trà Sư được thực hiện qua 03 đợt thu mẫu từ tháng 8 đến tháng 11/2023. Mẫu cá được thu trực tiếp bằng lưới dìm (lưới chụp) và lú đuôi chuột. Phương pháp thống kê mô tả và các chỉ số đa dạng sinh học được sử dụng trong nghiên cứu để so sánh thành phần loài giữa hai khu vực thu mẫu. Kết quả cho thấy có 36 loài cá thuộc 17 họ và 7 bộ được xác định tại các cống lấy nước, chủ yếu là các loài cá di cư theo mùa lũ. Trong khi đó, vùng lõi chỉ ghi nhận được 14 loài cá thuộc 8 họ và 4 bộ với phần lớn là các loài cá bản địa. Kết quả cũng cho thấy, ở vùng cửa cống có mức độ đa dạng sinh học khu hệ cá cao hơn vùng lõi thông qua chỉ số H’, Dmg và Cd. Chỉ số tương đồng Sorensen cho thấy chỉ có 8 loài cá cùng xuất hiện ở cả hai khu vực thu mẫu (chiếm 19%). Từ đó phản ánh rằng, thành phần loài cá trong vùng lõi Trà Sư có sự khác biệt đáng kể so với thuỷ vực bên ngoài, với sự chiếm ưu thế của nhóm cá bản địa thích nghi tốt trong điều kiện nước tĩnh.  

Đánh giá tính dễ bị tổn thương dưới tác động của xâm nhập mặn trên các mô hình canh tác nông nghiệp tại tỉnh Sóc Trăng năm 2023

Nguyễn Kim Khoa, Nguyễn Thị Hồng Điệp, Nguyễn Trọng Nguyễn, Trần Thị Bích Liên
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tính dễ bị tổn thương do xâm nhập mặn trên các mô hình canh tác nông nghiệp tại tỉnh Sóc Trăng. Dữ liệu vệ tinh Sentinel-1A được sử dụng kết hợp với thuật toán Random Forest để phân loại hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp. Trên cơ sở đó, 100 nông hộ được tiến hành khảo sát nhằm đánh giá mức độ tổn thương theo khung lý thuyết của IPCC. Nghiên cứu đã xác định được 10 loại hình sử dụng đất nông nghiệp tại Sóc Trăng. Kết quả đánh giá tính dễ bị tổn thương cho thấy các mô hình lúa hai vụ, lúa ba vụ và cây hàng năm có mức tổn thương cao. Trong khi đó, mô hình lúa - tôm và cây lâu năm có mức tổn thương trung bình và thấp. Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin khoa học về tính dễ bị tổn thương của các mô hình canh tác trước xâm nhập mặn, làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp thích ứng phù hợp tại địa phương.

Ứng dụng ảnh viễn thám độ phân giải cao thành lập bản đồ hiện trạng cây ăn trái tại huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre

Phạm Hoàng Tú, Nguyễn Thị Hồng Điệp, Nguyễn Trọng Nguyễn
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu ảnh vệ tinh độ phân giải cao từ Google Satellite và Planet Nicfi kết hợp phương pháp phân loại theo hướng đối tượng (OBIA) - thuật toán máy vector hỗ trợ (SVM) để xây dựng bản đồ hiện trạng cây ăn trái tại huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre năm 2024. Kết quả phân loại đạt độ tin cậy cao với độ chính xác toàn cục và hệ số Kappa lần lượt là  92,6% và 0,9. Sầu riêng là loại cây trồng chiếm diện tích lớn nhất với 5.388,9 ha (32,0% tổng diện tích tự nhiên), tiếp theo là vườn ươm giống (19,6%), chôm chôm (11,9%) và dừa (7,4%). Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin chi tiết về hiện trạng phân bố các loại cây ăn trái, hỗ trợ hiệu quả cho công tác quản lý và quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp tại huyện Chợ Lách, đồng thời đóng góp quan trọng vào việc định hướng phát triển bền vững ngành nông nghiệp của tỉnh Bến Tre.

Diễn biến phù sa ở vùng thượng nguồn đồng bằng sông Cửu Long, đoạn qua Tân Châu và Châu Đốc, giai đoạn 2000 - 2023

Giáp Minh Nhật, Đặng Thị Hồng Ngọc, Nguyễn Đình Giang Nam, Lâm Văn Thịnh, Huỳnh Vương Thu Minh
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá xu thế thay đổi của phù sa sông Mê Kông chảy vào đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn 2000-2023 thông qua số liệu quan trắc phù sa tại trạm thủy văn Tân Châu trên sông Tiền và trạm thủy văn Châu Đốc trên sông Hậu. Trong nghiên cứu, phương pháp kiểm định phi tham số Mann-Kendall được sử dụng nhằm đánh giá xu thế và độ dốc Sen’s Slope để ước lượng mức độ biến động phù sa theo thời gian. Tổng lượng phù sa qua Tân Châu và Châu Đốc có xu hướng giảm có ý nghĩa thống kê trong các tháng mùa mưa. Trong đó, tỉ lệ phần trăm thay đổi cao nhất tương ứng là -4,11% vào tháng 6 tại Châu Đốc, -3,23% vào tháng 1 tại Tân Châu. Tương tự, lưu lượng tại Châu  Đốc cũng có xu hướng giảm mạnh đáng kể, nổi bật là trong tháng 1, với tỉ lệ phần trăm thay đổi là -3,23%. Trong khi đó, Tân Châu chỉ có lưu lượng nước tăng đáng kể vào tháng 4, với tỉ lệ phần trăm thay đổi là 2,93%. Những phát hiện trong nghiên cứu này có thể giúp cho các nhà quản lý môi trường về diễn biến tổng lượng phù sa hiện nay, nhằm góp phần cung cấp một bức tranh toàn cảnh về tình hình phù sa sông Mê Kông.

Đánh giá sự thay đổi về chất lượng nước dưới đất ở tỉnh Cà Mau

Dương Thị Ngọc Tuyền, Hồng Minh Hoàng, Nguyễn Hoàng Tấn, Dương Thị Trúc, Văn Phạm Đăng Trí
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu đánh giá sự biến động về chất lượng nước dưới đất tại tỉnh Cà Mau trong giai đoạn 2015 – 2023 dựa trên số liệu quan trắc từ 38 giếng khoan. Phương pháp phân tích thống kê mô tả được áp dụng để phân tích số liệu và so sánh với QCVN 09:2023/BTNMT về chất lượng nước dưới đất. Ngoài ra, các chỉ số đánh giá chất lượng nước nước còn được áp dụng trong nghiên cứu như: chỉ số chất lượng nước dưới đất GWQI, chỉ số ô nhiễm kim loại nặng HPI và chỉ số ô nhiễm tổng hợp CPI để đánh giá chất lượng nước dưới đất ở tỉnh Cà Mau. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng nước dưới đất ở tỉnh Cà Mau có biến động theo tầng khai thác, theo mùa và đang có xu hướng cải thiện. Hầu hết các chỉ tiêu nằm trong giới hạn theo QCVN 09:2023/BTNMT, ngoại trừ chỉ tiêu N-NH4+ và tổng T.Coliform. Kết quả các chỉ số GWQI, CPI, HPI cho thấy, chất nước dưới đất ở tỉnh Cà Mau vẫn nằm trong ngưỡng an toàn, phù hợp cho sử dụng.

Đánh giá xu thế lượng mưa và nhiệt độ sử dụng kiểm định phi tham số tại tỉnh Kiên Giang, Việt Nam

Ngô Mỹ Linh, Nguyễn Thị Hồng Điệp, Đặng Thị Hồng Ngọc, Pham Anh Khoa, Nguyễn Văn Khang, Huỳnh Vương Thu Minh
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu đánh giá xu thế biến đổi khí hậu tại Kiên Giang dựa trên dữ liệu lượng mưa giai đoạn từ năm 1979 đến 2022 và nhiệt độ từ năm 1992 đến 2022, phân tích theo các thang đo năm, mùa và tháng. Sử dụng phương pháp kiểm định phi tham số gồm: MK, Sen’s Slope, SMK và ITA, kết quả cho thấy tổng lượng mưa, số ngày mưa mùa khô và số ngày mưa trong năm có xu hướng tăng (p ≤ 0,05), trong khi lượng mưa mùa mưa có xu hướng giảm nhẹ nhưng không đáng kể. Lượng mưa trong tháng 1 tăng (p = 0,024), phản ánh tăng lượng mưa vào mùa khô. Nhiệt độ, Tmax có xu hướng giảm nhẹ, trong khi Tmin lại tăng mạnh, đặc biệt tháng đầu năm, phản ánh xu thế ấm lên. Nhiệt độ trung bình (Ttb) vẫn tăng mặc dù giảm nhẹ của Tmax. Kết quả nghiên cứu xác nhận xu hướng biến đổi khí hậu tại Kiên Giang, nổi bậc sự gia tăng lượng mưa mùa khô và nhiệt độ tối thiểu, từ đó nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết trong việc quản lý tài nguyên nước và xây dựng chiến lược ứng phó dài hạn.

Phân tích đánh đổi phát thải khí nhà kính - hiệu quả kinh tế trên mô hình canh tác nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Hoàng Thanh, Nguyễn Thị Hồng Điệp, Nguyễn Trọng Nguyễn, Phan Kỳ Trung
Tóm tắt | PDF
Nghiên cứu đã ước tính lượng phát thải khí nhà kính (KNK) và phân tích đánh đổi hiệu quả kinh tế trên từng mô hình canh tác sử dụng đất nông nghiệp tại tỉnh Sóc Trăng. Ảnh vệ tinh Sentinel-1 được áp dụng để xây dựng bản đồ hiện trạng cơ cấu mùa vụ và ước tính hệ số phát thải KNK theo hướng dẫn của IPCC. Sau đó việc phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế dựa trên lượng phát thải được tiến hành. Kết quả ước tính cho thấy lượng phát thải cao nhất thuộc về mô hình lúa ba vụ với 7.566,36 kg CO₂tđ/ha/năm, trong khi mô hình phát thải thấp nhất là lúa 1 vụ với 2.324,99 kg CO₂tđ/ha/năm. Kết quả phân tích đánh đổi hiệu quả kinh tế cho thấy trên cùng đơn vị lợi nhuận, mô hình lúa ba vụ có mức phát thải cao nhất, với 83,41 kg CO₂tđ/triệu đồng, trong khi hành tím có mức đánh đổi thấp nhất, chỉ 5,75 kg CO₂tđ/triệu đồng. Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin quan trọng về phát thải KNK từ các loại hình canh tác nông nghiệp tại địa phương.