Võ Thị Kiều Diễm * , Nguyen Anh Tuan , Ngô Thị Thu Thảo , Lê Văn Bình Nguyễn Trí Thanh

* Tác giả liên hệ (diemm0616003@gstudent.ctu.edu.vn)

Abstract

This study was conducted to evaluate the effects of different protein contents in diet on the growth and survival rate of black apple snail (Pila polita). There were 3 replicates in each treatment and snails were fed with protein levels at 15 (P15); 20 (P20); 25 (P25); 30 (P30); 35 (P35) and 40% (P40). Newly hatched snails with initial shell height and weight of 4.88 mm and 0.03g were reared in the composite tanks (80×60 cm, water column of 20 cm) with the density of 150 ind./tank. After 49 days of rearing period, the average weight and height of the snail at P25 (1.17 g and 17.3 mm) were higher (p<0.05) than those at P15 (0.85 g and 15.4 mm), P20 (1.03 g and 16.4 mm), P30 (1.10 g and 16.9 mm), P35 (1.00 g and 16.5 mm) or P40 (0.95 g and 16.2 mm). The survival rate of snails in P20 (98.0%) was higher than those in P15 (94.9%), P25 (96.0%), P30 (96.4%), P35 (96.0%) and P40 (88.4%). However, the survival rate was not significant difference among treatments (p >0.05). Snails in P25 obtained the highest yield (349 g/m2) and it was significantly different (p <0.05) from P15 (221 g/m2), P20 (311 g/m2), P30 (305 g/m2), P35 (237 g/m2) and P40 (217 g/m2). The results of this study showed that the growth rate and yield of black apple snail were highest when feeding diet contained 25% protein.
Keywords: Black apple snail, growth, protein contents, survival rate

Tóm tắt

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của các hàm lượng đạm khác nhau trong thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita) giai đoạn ương giống. Mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại với các mức hàm lượng đạm lần lượt là: 15 (P15); 20 (P20); 25 (P25); 30 (P30); 35 (P35) và 40% (P40). Ốc giống mới nở có chiều cao và khối lượng ban đầu là 4,88 mm và 0,03 g được ương trong bể composite (kích thước 80×60 cm, chiều cao cột nước 20 cm) với mật độ 150 con/bể. Sau 49 ngày ương, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc ương ở hàm lượng đạm P25 (1,17 g và 17,3 mm) cao hơn (p<0,05) so với P15 (0,85 g và 15,4 mm), P20 (1,03 g và 16,4 mm), P30 (1,10 g và 16,9 mm), P35 (1,00 g và 16,5 mm) hoặc P40 (0,95 g và 16,2 mm). Tỷ lệ sống của ốc ở hàm lượng đạm P20 (98,0%) cao hơn so với P15 (94,9%), P25 (96,0%), P30 (96,4%), P35 (96,0%) và P40 (88,4%) tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Ương ốc ở hàm lượng đạm P25 cho năng suất (349 g/m2) cao nhất và khác biệt (p<0,05) so với P15 (221 g/m2), P20 (311 g/m2), P30 (305 g/m2), P35 (237 g/m2) và P40 (217 g/m2). Kết quả nghiên cứu này cho thấy tốc độ tăng trưởng và năng suất ốc bươu đồng đạt cao nhất khi ương bằng thức ăn phối chế với hàm lượng đạm 25%.
Từ khóa: Hàm lượng đạm, ốc bươu đồng, sinh trưởng, tỷ lệ sống

Article Details

Tài liệu tham khảo

Hình 1: Tỷ lệ phân hóa sinh trưởng khối lượng và chiều cao ốc bươu đồng ở các hàm lượng đạm khác nhau

Kết quả Bảng 5 cho thấy sau 49 ngày ương tỷ lệ phân hóa sinh trưởng chiều cao và khối lượng của ốc thấp nhất ở nghiệm thức P25 (10,5% và 30,9%) và khác biệt (p<0,05) so với nghiệm thức P40 (13,0% và 37,5%). Ở nghiệm thức P25, ốc có kích thước ở nhómchiều cao 20,01 - 22,5 mm chiếm8,1% và khối lượng 2,01 - 2,50 g chiếm3% cao hơn và khác biệt (p<0,05) so với P15 hay P40 chỉ có 0,2% về chiều cao và không có ốc phân bố nhóm khối lượng này (Hình 1). Ngược lại, ở nghiệm thức P40 có tỷ lệ ốc ở nhóm kích thước nhỏ10,00 - 12,50 mm cao nhất (8,83%), khối lượng 0,00 - 0,50 g (15%) cao hơn so với các nghiệm thức khác (Hình 1). Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy thức ăn với các hàm lượng đạm khác nhau (từ 15 đến 40%) đã ảnh hưởng đến năng suất, tỷ lệ tăng sinh khối, và tỷ lệ phân hóa sinh trưởng khối lượng của ốc giống sau 49 ngày ương.

Theo Lum-Kong và Kenny (1989), nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của ốc bươu đồng là 20 - 32oC, Nguyễn Thị Bình (2011) ốc bươu đồng giai đoạn còn nhỏ sống tốt khi nhiệt độ 27oC vào buổi sáng và 30oC buổi chiều. Trong nghiên cứu này, nhiệt độ buổi sáng ổn định 25,7oC, buổi chiều biến động 28,8 - 29,4oC trong khoảng tương đối thích hợp cho ốc bươu đồng giống sinh trưởng và phát triển. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Diệu Linh (2011) cho thấy có thể nuôi thương phẩm ốc bươu đồng khi pH từ 7,1 - 8,4. Theo kết quả nghiên cứu của Jahanet al.(2001), nuôi Pila globosatrong môi trường sống tự nhiên với thức ăn là thực vật thủy sinh có giá trị pH nằm trong khoảng 7,8 - 8,3 là thích hợp cho sự phát triển của đối tượng này. Nhìn chung, pH trong quá trình thí nghiệm đều nằm trong khoảng thích hợp. Độ kiềmtrong thí nghiệm tương đối thấp (54,1 - 63,8 mg CaCO3/L) do sự hấp thụ canxiphục vụ cho sự tăng trưởng của ốc. Ngô Thị Thu Thảo vàctv.(2013) cho rằng độ kiềm thấpcó thể do tốc độ tăng trưởng của ốc nhanh, ốc cầnmột lượng canxi lớnđể hình thành vỏ cho quá trình phát triển.

Kết quả cho thấy hàm lượng TAN và NO2-nằm trong khoảng phù hợp cho phát triển của ốc bươu đồng. Nguyễn Thị Đạt (2010) nuôi ốc bươu đồng thương phẩm thì hàm lượng NO2-trung bình trong khoảng 0,3 - 1,0 mg/L. Trong thí nghiệm này, hàm lượng TAN và NO2-tăng dần khi hàm lượng đạm tăng, điều này có thể được giải thích rằng ở các nghiệm thức có hàm lượng đạm càng cao sẽ làm môi trường nước dễ bị ô nhiễm hơn từ lượng vậtchất hữu cơ tạo ra từ thức ăn và các sản phẩm bài tiết từ ốc. Lượng vậtchất hữu cơ này sẽ chuyển hóa sang các ion amoniadẫn đến nồng độ TAN và NO2-cao, điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hô hấp của ốc, thực tế quan sát thấy ở các nghiệm thức có nồng độ TAN và NO2-cao thì ốc có biểu hiện bò khỏimặt nước, thường treomình trên mặt nước và khép miệng vỏ lại. Đây là biểu hiện của ốc trong môi trường sống gặpđiều kiện bất lợi. Kết quả này cũng khá phù hợp với các nghiên cứu của Ngô Thị Thu Thảo và ctv.(2013), Lê Văn Bình và Ngô Thị Thu Thảo (2014), Ngô Thị Thu Thảo (2015) khi quan sát thấy hàm lượng TAN và NO2-ở các nghiệm thức cho ăn thức ăn công nghiệp luôncao hơn các nghiệm thức cho ăn thức ăn chỉ là cám, bột khoai mìhay rau xà lách.

Tăng trưởng về chiều cao và khối lượng ốc đều cao nhất ở nghiệm thức có hàm lượng đạm 25%. Đối với một số loài chân bụngăn thiên về thực vật cũng được ghi nhận đã có sự ảnh hưởng của các hàm lượng đạm khác nhau đến tăng trưởng, cụ thể như sau: nghiên cứu trên ốc bươu vàng Pomacea urceuscủa Ramnarine (2004) cho thấy rằng sự gia tăng trọng lượng lớn nhất 230% với hàm lượng đạm 30% và tăng trọng thấp nhất 133% ở hàm lượng đạm là 15%. Bào ngư Haliotis midaekích thước nhỏ cho ăn với hàm lượng đạm 20 - 24% đã làm tăng khối lượng (0,69 g) và chiều cao (16,4 mm) cao hơn so với hai hàm lượng đạm là 34% và 44% (Green, 2009). So với loàiăn thức ăn có nguồn gốc là động vật, chẳng hạn như ốc hương giống, Chaitanawisuti et al.(2010) và Chaitanawisuti et al.(2011) cho thấy ương ốc hương Babylonia areolatacho ăn hàm lượng đạm 35 - 36% đã làm tăng khối lượng hơn so với các hàm lượng đạm 20; 28; 40 và 45%. Ở hàm lượng đạm 25%, ốc bươu đồng đạt tăng trưởng chiều cao hay khối lượng tương đối và tuyệt đối cao nhất và cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Mendoza et al.(1999), tác giả nghiên cứu ảnh hưởng các hàm lượng đạm khác nhau của ốc bươu vàng Pomacea bridgesii và cho thấyrằng ốc bươu vàng sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm 20 và 30% có tốc độ tăng trưởng tương đối cao hơn so với 10% hay 40% đạm. Kết quả nghiên cứu này cho thấy ốc bươu đồng cầnhàm lượng đạm tương đương với bào ngư hay ốc bươu vàng là những loài ăn thiên về thực vật, những nghiên cứu trên các đối tượng ốc bươu vàng Pomacea urceus(Ramnarine, 2004) và bào ngư Haliotis midae(Green, 2009) cũng cho rằngở mức 25% cho tăng trưởng tốt nhất. Việc cho ăn thấp hơn mức đạmnày có thể sẽ làm chậm quá trình phát triển của ốc, bởi vì khi lượng proteincung cấp không đủ chúng sẽ sử dụng protein của chínhcơthể để duy trì các chức năng hoạt động của cơ thể. Bên cạnh đó, nếu cho ăn ở mức đạm cao hơn có thể coi là một sự lãng phí hay dư thừa, vì lượng protein dưsẽ không được cơ thể hấp thu để tổng hợp thành protein mới mà sử dụng để chuyển hóa thành năng lượng hoặc thảira ngoài, thêm vào đó cơ thể còn phải tốn năng lượng cho quá trình tiêu hóa protein dư thừa vì thế sinh trưởng của cơ thể giảm.

Kết quả tỷ lệ sống của ốc giống đạt caoở hầu hết các nghiệm thức P15 (94,9% ), P20 (98%), P30 (96,4%), P25 và P35 (96%) và không có sự khác biệt (p>0,05) giữa các nghiệm thức này. Tuy nhiên, ở nghiệm thức cho ăn thức ăn 40% đạm (P40), tỷ lệ sống thấp hơn so với các nghiệm thức còn lại là do hàm lượng TAN và NO2khá cao và tăng nhanh trong quá trình thí nghiệm, chất lượng môi trường nước xấuđã làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ốc, bên cạnh đó việc phân hóa sinh trưởng cao dẫn đến cạnh tranh về mặt dinh dưỡng, ốc kích thước lớn sẽ có khả năng tiếp cận thức ăn cao hơn ốc có kích thước nhỏ, quá trình lấy thức ăn diễn ra nhanh hơn. Đôi khi ốc không chủ động bơi để tìm thức ăn mà chúng chỉ bám vào giá thểvà hútthức ăn đưa vào miệng một cách thụ động. Các vật chất lơ lửng trong dòngnước chảy qua chân được giữlại làm thức ăn cho ốc (Dillon, 2000). Điều này khiến cho nhóm ốccó kích thước nhỏ trong bể bị thiếudinh dưỡng cho quá trình phát triển và đây cũng là lý do làm giảm tỷ lệ sống của ốc.

Tỷ lệ tăng sinh khối đạt cao nhất ở hàm lượng đạm P25 (1.235%), tăng sinh khối đạt cao nhất khi cho ăn thức ăn 25% đạm do ở hàm lượng đạm này tốc độ tăng trưởng về khối lượng là cao nhất và tỷ lệ sống cũng đạt cao, mặt khác ở hàm lượng đạm này thu được năng suất cao. Theo kết quả của Lê Văn Bình và Ngô Thị Thu Thảo (2013), khi cho ăn thức ăn viên, ốcgiống đạt năng suất cao và kéotheo tỷ lệ tăng sinh khối cũng tăng hơn so với thức ăn là cám mịnvà bột khoai mì. Năng suất thu được sau 49 ngày ương khá cao, nghiên cứu của Lê Văn Bình và Ngô Thị Thu Thảo (2013) ở cùng mật độ ương 300 con/m2với thời gian ương là 35 ngày, năng suất thu được khi ốc được cho ăn thức ăn viên đạtcao nhất (195g/m2), kế đến là bột khoai mì (93g/m2) và thấp nhất là cám mịn (77g/m2).

Ugwuowo (2009) thu được kết quả tỷ lệ vỏ của ốc sên Archachatina marginatacaokhi cho thức ăn có hàm lượng đạm 16% hay 18% và thấp hơn khi cho ăn ở hàm lượng đạm 20% và 22%. Chỉ số thể trạng phản ánh sinh trưởng và tích lũy dinh dưỡng của ốc bươu đồng giống, chỉ số thể trạng của ốc đạt cao nhất ở P25, kết quả này cũng tương đương với kết quả nghiên cứu của Ugwuowo (2009) khi cho rằng ở mức đạm 22% cho kết quả tỷ lệ phần trăm khối lượng thân mềm đạt cao nhất.

Sự phân hóa sinh trưởng của ốc thấp nhất ở nghiệm thức 25% đạm, ở hàm lượng đạm này ốc lớn nhanh và đều cỡhơn so với các nghiệm thức khác. Mendoza et al.(1999) cho rằng khi lượng protein quá cao vượt quá khả năng tiêu hóa của ốc bươu vàng thì chúng cần tiêu tốnmột mức năng lượng cao hơn cho việc bài tiết lượng đạm thừara khỏi cơ thể. Hơn nữa, điều kiện bất lợi của môi trường nước ở nghiệm thức cho ăn hàm lượng đạm cao cũng ảnh hưởng lên khả năng chịu đựng của ốc và dẫn đến sự phân hóa sinh trưởng cao trong quá trình thí nghiệm.

Tỷ lệ sống của ốc bươu đồng cao nhất ở hàm lượng đạm 20% (98,0%) tuy nhiên không khác biệt (p>0,05) so với các nghiệm thức có hàm lượng đạm P25 đến P35.

Khối lượng và chiều cao của ốc bươu đồng khi ương với hàm lượng đạm là 25% đạt cao hơn so với các hàm lượng đạm còn lại.

Năng suất đạt cao nhất khiương ốc bươu đồng giống bằng thức ăn phối chế với hàm lượng đạm 25%.

Có thể ứng dụng kết quả từ nghiên cứu này trong thực tế để đáp ứng các yêu cầu về tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và phân hóa sinh trưởng trong quá trình ươngốc bươu đồng giống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chaitanawisuti, N., Rodruang, C. and Piyatiratitivorakul, S., 2010. Optimum dietary protein levels and protein to energy ratios on growth and survival of juveniles spotted Babylon (Babylonia areolata) under the recirculating seawater conditions. International Journal of Fisheries and Aquaculture, 2(2): 58-63.

Chaitanawisuti, N., Kritsanapuntu, S. and Santaweesuk, W., 2011. Effects of dietary protein and lipid levels and protein to energy ratios on growth performance and feed utilization of hatchery-reared juvenile spotted babylon (Babylonia areolata). Aquacult. Int., 19 (1): 13-21.

Dillon, R.T., 2000. The ecology of freshwater molluscs. Cambridge, UK: Cambridge University Press, 2000: 509 pp.

Green, A.J., 2009. The protein and energy requirements of the South African abalone, Haliotis midae. Master of Science. Rhodes University: 82pp

Jahan, M. S., Akter, M. S., Sarker, M. M., Rahman, M. R. and Pramanik, M. N., 2001. Growth ecology of Pila globosa (Swainson) (Gastropoda: Pilidae) in simulated habitat. Department of zoology, University of Rajshahi, Rajshahi – 6205, Bangladesh: 581 – 584.

Lê Văn Bình và Ngô Thị Thu Thảo, 2013. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita Deshayes, 1830). Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. ISSN 1859-4581, Kỳ 2-Tháng 9/2013: 84-90.

Lê Văn Bình và Ngô Thị Thu Thảo, 2014. Ảnh hưởng của mật độ ương đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita) giống. Tạp chí khoa học. Trường Đại Cần Thơ. Số chuyên đề Thủy sản (1): 83-91.

Lum-Kong, A. and Kenny, J.S., 1989. The reproductive biology of the ampullariid snail Pomacea urceus. Journal of Molluscan Studies 55: 53-65.

Mendoza, R., Aguilera, C., Montemayor J. and Rodríguez, G., 1999. Utilization of artificial diets and effect of protein/energy relationship on growth performance of the apple snail Pomacea bridgesii (Prosobranchia: Ampullariidae). Veliger, 42:109-119.

Ngô Thị Thu Thảo, 2015. Ảnh hưởng của nguồn nước đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của ốc bươu đồng (Pila polita) khi ương giống. Tạp chí khoa học, Trường Đại Cần Thơ, số 30b (1): 40-46.

Ngô Thị Thu Thảo, Lê Ngọc Việt và Lê Văn Bình, 2013. Ảnh hưởng của rau xanh và thức ăn công nghiệp đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của ốc bươu đồng giống. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, số 28b: 151-156.

Nguyễn Thị Bình, 2011. Tìm hiểu một số đặc điểm sinh sản của ốc nhồi (Pila polita, Deshayes 1830) và thử nghiệm kỹ thuật sản xuất giống. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Vinh: 96 trang.

Nguyễn Thị Bình, Tạ Thị Bình và Mai Duy Minh, 2012. Ảnh hưởng thức ăn và mật độ nuôi đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita). Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kỳ 1/12. 57-61.

Nguyễn Thị Diệu Linh, 2011. Ảnh hưởng của thức ăn, mật độ đến tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của ốc bươu đồng P. polita nuôi trong giai ở ao nước ngọt thành phố Vinh. Luận văn thạc sĩ. Trường Đại học Vinh: 107 trang.

Nguyễn Thị Đạt, 2010. Ảnh hưởng của mật độ và một số loài thức ăn lên tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng Pila polita trong nuôi thương phẩm. Luận văn thạc sĩ nông nghiệp. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội: 77 trang.

Ramnarine, I.W., 2004. Quantitative protein requirements of the edible snail Pomacea urceus (Muller). Journal of the world aquaculture society, 35 (2): 253-256.

Ugwuowo, L.C., 2009. Effects of different protein sources on the growth performance and carcass characteristics of African giant land snail (Archachatina marginata). Master of Science .University of Nigeria,.29pp.

Yamashita, M., Motoki, S., Space, A.T.F and Naomi, J.K., 2008. Production of apple snail for space diet. Cospar Scientific Assembly. 3531pp.